1. Trang trại nuôi tôm ít nhất ở Ecuador khoảng 10 ha, có nơi trăm ha, nghìn ha thậm chí bốn nghìn ha nên sản lượng tốt dù nuôi ở mật độ thấp. Nếu Việt Nam áp dụng mật độ thấp như vậy vào các trang trại nuôi tôm trong nước, sản lượng có thể giảm do diện tích nuôi quá nhỏ; ngoại trừ các doanh nghiệp lớn như Minh Phú, BIM, Trung Sơn khi sở hữu vùng nuôi hàng trăm ha. Như vậy, nếu họ sẵn sàng chuyển sang mô hình nuôi mới, họ có thể áp dụng phương pháp thả mật độ thấp.

2. Với mật độ nuôi 20 con/m2, Ecuador có thể sử dụng thức ăn có hàm lượng đạm thấp (35-28% đạm) do tôm hấp thụ được nhiều thức ăn tự nhiên trong ao. Thức ăn chiếm 50% chi phí sản xuất. Trong khi đó, quy mô các trang trại nuôi tôm của Việt Nam quá nhỏ nên phải thả tôm với mật độ dày để đạt sản lượng cao. Và do mật độ cao nên phải sử dụng thức ăn siêu cấp.

Việc cho rằng thức ăn chăn nuôi chiếm 50% chi phí sản xuất dẫn đến Việt Nam tốn nhiều chi phí hơn khi sử dụng thức ăn siêu cấp là không hoàn toàn đúng. Năm 2016, tôi thực hiện khảo sát liên quan đến thức ăn ở Ấn Độ và Ecuador và nhận thấy thức ăn giàu đạm giúp rút ngắn chu kỳ nuôi (tôm Việt Nam đạt 20g chỉ sau 80 ngày thả nuôi trong khi ở Ecuador là 90-115 ngày và 110-130 ngày ở Ấn Độ). Một tính toán được thực hiện trên tôm cùng kích cỡ (20g) cho thấy thức ăn ít protein và mật độ thả nuôi cao ở Ấn Độ đã đẩy FCR lên cao hơn nhiều so với thức ăn giàu protein. Như vậy, chi phí sản xuất thức ăn chăn nuôi không giảm mà còn kéo dài chu kỳ sản xuất.

3. Hầu hết người nuôi tôm Việt Nam đều thiếu vốn và mua con giống, thức ăn và thuốc dưới hình thức tín chấp từ các đại lý đa cấp. Các trang trại quy mô lớn ở Ecuador mua thức ăn và thuốc từ các nhà máy chế biến thức ăn và công ty nguyên liệu hoặc đại lý cấp 1 chứ không phải đại lý đa cấp như ở Việt Nam. Chi phí sản xuất thấp, mật độ nuôi thấp, lợi thế thức ăn tự nhiên, cắt giảm chi phí máy sục khí cánh quạt và nhân công là những nguyên nhân khiến tôm Ecuador được bán với giá rẻ hơn nhiều so với tôm Việt Nam.

4. Mô hình nuôi tôm của Indonesia cũng tương tự Việt Nam. Tuy nhiên, người nuôi ở đây sử dụng thức ăn có hàm lượng protein thấp (35-38%) với hệ số FCR cao hơn so với Việt Nam nên sự khác biệt về chi phí thức ăn là không rõ ràng. Điểm khác biệt lớn nhất là các trang trại nuôi tôm của Indonesia có ít nhất 20 ao và thức ăn được mua từ các nhà máy sản xuất thức ăn hoặc đại lý cấp 1. Các trại nuôi tôm có nhiều ao và được đầu tư với số tiền lớn nên người nuôi không phải mua chịu từ các đại lý đa cấp như ở Việt Nam.

Tăng tỷ lệ sống để giảm chi phí sản xuất là điều không dễ dàng vì cần có một chiến lược tổng thể liên quan đến con giống, thức ăn và mô hình nuôi, các khóa đào tạo và trao đổi trong cộng đồng nuôi tôm. Ví dụ, Ecuador đã rất thành công trong việc lai tạo đàn vì họ giảm thiểu rủi ro của virus hội chứng đốm trắng ở tôm bằng các thế hệ nhân giống chọn lọc qua nhiều thập kỷ. Những gì họ đã làm là chọn những con tôm có khả năng phục hồi từ các ao bị nhiễm bệnh để ương chúng thành tôm bố mẹ trưởng thành. Như vậy dòng tôm của Ecuador có khả năng kháng virus gây bệnh đốm trắng. Trong khi đó, Việt Nam có tỷ lệ nuôi thành công thấp, chủ yếu nuôi trong ao đất do không đạt yêu cầu về an toàn sinh học và không tiêu diệt được mầm bệnh đốm trắng. Người nuôi tôm ao đất của Việt Nam năm nào cũng bị thua lỗ nghiêm trọng.

Bên cạnh đó, ô nhiễm nguồn nước cũng là một vấn đề nan giải do ĐBSCL là vùng trũng, hệ thống thủy lợi yếu kém không đưa được lượng nước thải ra cửa biển, đại dương như ở các nước có vùng trũng cao như Indonesia. Các ao đất nhỏ ở Việt Nam không được đầu tư về thiết kế, máy sục khí cánh quạt, hệ thống xử lý nước nên rủi ro về mầm bệnh cao hơn ao lót bạt và tỷ lệ nuôi thành công thấp (<40%).

Đây là những lý do khiến chi phí sản xuất nuôi tôm ở Việt Nam cao hơn ở Ecuador. Vì vậy, chúng ta không nên so sánh Việt Nam với một quốc gia khác ở một khung khác.

Giải pháp tạm thời:

  1. Tập trung phát triển hệ thống ao đất hoàn chỉnh từ khâu thiết kế, bể lắng, hệ thống xử lý nước, phương pháp nuôi an toàn sinh học, mô hình nuôi phù hợp để xây dựng mô hình ao đất đạt hiệu quả cao.
  2. Tập huấn cho nông dân nuôi nhỏ lẻ và chuyển giao mô hình nuôi ao đất thành công cho các hộ làm theo nhóm.
  3. Các hộ trong nhóm cần phối hợp chặt chẽ để thương lượng mua con giống, thức ăn, vật tư với giá thấp và cho các nhóm nhỏ trong nhóm vay vốn.
  4. Cần có các điều kiện tiêu chuẩn hóa đối với các lớp lót ao không đủ tiêu chuẩn.

Chiến lược tổng thể và dài hạn bao gồm:

  1. Nhập đàn giống SPR và kiểm soát chất lượng con giống.
  2. Cải thiện hệ thống cấp thoát nước vùng nuôi tôm trọng điểm.
  3. Vạch ra quy hoạch hợp lý để xác định các mô hình nuôi phù hợp với lợi thế tự nhiên của địa phương (ao lót bạt, ao đất, mô hình tôm – rừng ngập mặn, mô hình tôm – lúa)
  4. Phát triển các vùng nuôi, Hợp tác xã thành chuỗi giá trị, cùng với vốn vay hỗ trợ đàm phán giá mua con giống, thức ăn.
  5. Xây dựng các Trung tâm đào tạo, tập huấn kỹ thuật tại các tỉnh để mời các chuyên gia, kỹ sư giỏi, các hộ nuôi tôm thành công đến hướng dẫn, chuyển giao kiến ​​thức, chia sẻ kinh nghiệm cho nông dân địa phương.

Theo Nguyễn Duy Hòa, Trưởng phòng kỹ thuật, Empyreal, Cargill Inc

Nguồn: https://vietfishmagazine.com/markets/odious-to-compare-prices-of-vietnamese-shrimp-and-ecuadorian-shrimp.html

Biên dịch: Nguyễn Thị Quyên –  Tôm Giống Gia Hóa Bình Minh

TÔM GIỐNG GIA HÓA- CHÌA KHÓA THÀNH CÔNG 

Xem thêm:

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *