Tóm tắt

Tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei) là loại thủy sản có giá trị kinh tế cao tại Indonesia. Tuy nhiên, giá thức ăn đặc biệt là bột cá chiếm đến 50% chi phí sản xuất gây áp lực lớn cho người nuôi. Nghiên cứu này khảo sát tiềm năng của bột giun biển (Nereis sp.) là nguồn nguyên liệu dồi dào, giá rẻ và giàu dinh dưỡng có thể thay thế cho bột cá trong thức ăn cho tôm. Nghiên cứu này đánh giá ảnh hưởng của việc thay thế bột cá bằng bột giun biển (Nereis sp.) trong chế độ ăn đối với sự tăng trưởng và tỷ lệ sống của tôm thẻ chân trắng (L. vannamei) và kiểm tra liều lượng tốt nhất. Nghiên cứu này sử dụng phương pháp thực nghiệm với thiết kế ngẫu nhiên hoàn toàn (CRD) gồm 4 nghiệm thức và 3 lần lặp lại. Các liều lần lượt là A: 0%, B: 25%, C: 30% và D: 35% bột Nereis sp. Động vật thử nghiệm được sử dụng là tôm thẻ chân trắng (L. vannamei) PL15. Tôm được nuôi trong thùng có kích thước 43x30x25 cm3 chứa đầy 6 lít nước biển. Tôm được nuôi trong 42 ngày với mật độ thả 30 con/thùng. Kết quả cho thấy việc thay thế bột cá bằng bột giun biển (Nereis sp.) trong khẩu phần có ảnh hưởng đáng kể (P < 0,05) đến tốc độ tăng trưởng và tỷ lệ sống của tôm thẻ chân trắng PL15 (L. vannamei). Giá trị cao nhất về tổng lượng thức ăn tiêu thụ, tốc độ tăng trưởng tương đối, hiệu quả sử dụng thức ăn, tỷ lệ chuyển hóa thức ăn, tỷ lệ hiệu quả sử dụng protein và tỷ lệ sống được tìm thấy ở nghiệm thức C (30% bột Nereis sp.) với các giá trị liên tiếp là 80,61 g, 3, 84 %/ngày, 72,01%, 1,39%, 1,67% và 100,00%.

Giới thiệu

Tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei) là một trong những mặt hàng thủy sản có giá trị kinh tế cao. Bắt đầu được nuôi ở Indonesia vào năm 2001. Một số ưu điểm của loài tôm này bao gồm phản ứng nhanh với thức ăn, kháng bệnh, tăng trưởng nhanh, có thể sống ở mật độ thả cao, thời gian nuôi tương đối ngắn khoảng 90-100 ngày mỗi chu kỳ và có tỷ lệ sống cao (Purnamasari và cộng sự, 2017). Sự thành công của một doanh nghiệp nuôi trồng thủy sản bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố quan trọng, một trong số đó là thức ăn. Nuôi tôm tiêu tốn khoảng 50% tổng chi phí sản xuất cho thức ăn (Zuliyan và cộng sự, 2017). Nhu cầu bột cá có thể được đáp ứng do phần lớn bột cá được nhập khẩu nên giá thành đắt và trở thành một trở ngại trong nuôi tôm. Các lựa chọn thay thế nguyên liệu thức ăn chăn nuôi đòi hỏi phải có hàm lượng protein cao, giá cả phải chăng và có thể thay thế một phần hoặc hoàn toàn bột cá (Pinandoyo và cộng sự, 2021). Theo Hadiyanto (2013) cho rằng giun biển có tiềm năng làm thức ăn tự nhiên cho tôm.

Giun biển (Nereis sp.) có giá trị kinh tế cao và có tiềm năng phát triển. Giun biển sống ở vùng thủy triều trên cả nền cát, bùn và đất cát (Asnawi et al., 2018). Tận dụng giun biển làm thức ăn tự nhiên và nhân tạo cho tôm vì hàm lượng dinh dưỡng cao. Tiềm năng của Nereis sp. làm thức ăn cho tôm là do hàm lượng cao cả axit amin và axit béo không bão hòa. Hàm lượng protein cao và các axit béo thiết yếu, đặc biệt là axit arachidonic (ARA), axit eicosapentaenoic (EPA) và axit docosahexaenoic (DHA) có vai trò kích thích tôm bố mẹ trưởng thành tuyến sinh dục (Subaidah et al., 2017). Giun biển chứa protein từ 42,06 đến 51,68% và chất béo từ 12,93 đến 22% để đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng của tôm (Wibowo et al., 2020).

Nhu cầu protein để hỗ trợ sự tăng trưởng và tỷ lệ sống của ấu trùng tôm thẻ chân trắng dao động từ 30 – 50% (Yustianti et al., 2013). Tôm thẻ chân trắng bị nhiễm tụ cầu Z1 – PL 10 có thể được cho ăn thức ăn nhân tạo dưới dạng bột mì, mì ống hoặc bột vây (SNI, 2009). Theo Arsad và cộng sự (2017), cường độ cho tôm thẻ chân trắng ăn dưới dạng bột cá và thức ăn viên bắt đầu ở PL 1-15 2 lần, PL 16-70 4 lần và PL 71-120 5 lần/ngày. Theo nghiên cứu của Yuwono (2005), tôm giống được nuôi bằng thức ăn chứa 30% bột giun và tôm sú có sự tăng trưởng, tỷ lệ sống đạt 95,67% sau khi cho ăn giun cắt nhỏ. Dựa trên nghiên cứu này, các tác giả quan tâm tiến hành nghiên cứu sâu hơn liên quan đến ảnh hưởng của việc sử dụng bột giun biển thay thế bột cá trong thức ăn nhân tạo đến sự tăng trưởng và tỷ lệ sống của tôm thẻ chân trắng PL 15 (L. vannamei).

Mục đích của nghiên cứu này là kiểm tra ảnh hưởng của việc thay thế bột cá bằng bột giun biển (Nereis sp.) trong chế độ ăn đối với sự tăng trưởng và tỷ lệ sống của tôm thẻ chân trắng (L. vannamei) và kiểm tra liều lượng tốt nhất đối với sự tăng trưởng và tỷ lệ sống của tôm thẻ chân trắng (L. vannamei).

Chuẩn bị nghiên cứu

Động vật thử nghiệm được sử dụng trong nghiên cứu này là tôm post L. vannamei từ Viện Công nghệ Khoa học Hàng hải (MSTP) UNDIP ở Jepara, Trung Java. Tôm được cho ăn đã được 12 ngày tuổi vào ngày thu thập đầu tiên, để tiếp tục thích nghi với thức ăn trong 3 ngày. Khi đạt PL 15, tôm đã sẵn sàng để sử dụng cho nghiên cứu.

Thùng nuôi được sử dụng trong nghiên cứu này là loại thùng có kích thước 43 x 30 x 25 cm3 chứa đầy 6 lít nước biển. Các thùng chứa được sử dụng gồm 12 thùng được trang bị sục khí và có tấm chắn dùng làm nắp thùng để ngăn tôm nhảy ra ngoài. Các thùng chứa đã được khử trùng trước khi sử dụng.

Môi trường nuôi được sử dụng là nước biển có độ mặn 29-30 ppt. Nguồn nước được lấy từ nước biển đã qua xử lý, lọc và khử trùng bằng clo với liều lượng 10 g/tấn, sau đó được trung hòa bằng thiosulfate.

Nghiên cứu này sử dụng phương pháp thực nghiệm được bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên (CRD) gồm 4 nghiệm thức và 3 lần lặp lại. Theo Setyanto (2013), phương pháp nghiên cứu thực nghiệm được sử dụng để xem xét tác động của mối quan hệ giữa biến phụ thuộc và biến độc lập và so sánh với biến kiểm soát. Nghiên cứu này sử dụng 4 nghiệm thức, mỗi nghiệm thức được lặp lại 3 lần, bố trí các nghiệm thức như sau:

Nghiệm thức A: Bột giun biển 0% (Nereis sp.)

Nghiệm thức B: 25% bột giun biển (Nereis sp.)

Nghiệm thức C: 30% bột giun biển (Nereis sp.)

Nghiệm thức D: 35% bột giun biển (Nereis sp.)

Quá trình làm thức ăn thử nghiệm bắt đầu bằng việc làm bột giun biển. Quy trình bắt đầu bằng việc rửa sạch giun biển, sau đó sấy khô bằng lò nướng ở nhiệt độ 50℃ trong khoảng 6 giờ cho đến khi khô rồi dùng máy xay nhuyễn và lọc để thu được những hạt bột mịn. Nguyên liệu thức ăn thử nghiệm được sử dụng là bột giun biển, bột cá, bột đầu tôm, bột đậu nành, bột cám, dầu cá, dầu ngô, VitMin mix và CMC.

Sau đây là hàm lượng dinh dưỡng của nguyên liệu thức ăn thô và công thức thức ăn thử nghiệm được trình bày trong Bảng 1 và 2.

Bảng 1. Kết quả phân tích gần đúng của thức ăn thô

Nguồn:

1Hernowo và cộng sự, (2020);

2Kết quả phân tích gần đúng của Phòng thí nghiệm Khoa học Dinh dưỡng và Thức ăn chăn nuôi, Khoa Chăn nuôi và Nông nghiệp, Đại học Diponegoro (2021);

3Sudrajat và Effendi (2002);

4Wibowo và cộng sự, (2020).

Bảng 2. Công thức thức ăn thử nghiệm

Dựa trên tuyên bố của Haryono và cộng sự (2015), quy trình sản xuất thức ăn bắt đầu bằng việc trộn tất cả các nguyên liệu thô với số lượng từ nhỏ nhất đến lớn nhất. Nguyên liệu hỗn hợp được thêm từ từ vào nước ấm (50-60°C), sau đó thức ăn được lọc bằng bộ lọc dừa. Nướng trong lò ở nhiệt độ khoảng 30°C cho đến khi khô.

Việc nuôi tôm thử nghiệm được thực hiện trong 42 ngày. Quản lý cho ăn sử dụng phương pháp no với tần suất cho ăn 3 lần/ngày vào lúc 8 giờ sáng, 2 giờ chiều và 8 giờ tối. Việc cho ăn được thực hiện bằng cách cân lượng thức ăn trong một ngày và sau khi cho ăn vào ban đêm, cân lượng thức ăn còn lại trong tổng số thức ăn đã được cân lúc đầu trước khi cho ăn. Quản lý chất lượng nước được thực hiện bằng cách hút hai lần một ngày vào lúc 6 giờ sáng và 4 giờ chiều để duy trì chất lượng nước bằng cách thay nước bẩn bằng nước mới (Widyantoko và cộng sự, 2015). Thức ăn thừa và phân được hút bằng ống hút nhỏ để loại bỏ chúng.

Dữ liệu được hiển thị bao gồm dữ liệu về tổng mức tiêu thụ thức ăn, tốc độ tăng trưởng tương đối, hiệu quả sử dụng thức ăn, tỷ lệ chuyển hóa thức ăn, tỷ lệ hiệu quả sử dụng protein, tỷ lệ sống và chất lượng nước.

Tổng mức tiêu thụ thức ăn

Tổng mức tiêu thụ thức ăn có thể được tính bằng công thức theo Weatherly (1972), như sau:

F = C – S

Trong đó:

F: Tổng lượng thức ăn tiêu thụ (g)

C: Thức ăn đã cho (g)

S: Thức ăn thừa (g)

Tốc độ tăng trưởng tương đối

Tốc độ tăng trưởng tương đối (RGR) có thể được tính theo công thức của De Silva và Anderson (1995) như sau:

Trong đó:

RGR: Tốc độ tăng trưởng tương đối (%/ngày)

Wt: Trọng lượng của tôm khi kết thúc nghiên cứu bữa ăn (g)

W0: Trọng lượng của tôm khi bắt đầu nghiên cứu (g)

t: Thời gian nuôi (ngày)

Hiệu quả sử dụng thức ăn

Hiệu quả sử dụng thức ăn có thể được tính bằng công thức theo Zonneveld và cộng sự, (1991), như sau:

Trong đó:

EPP: Hiệu suất sử dụng thức ăn (%)

Wt: Trọng lượng cuối cùng của tôm (g)

W0: Khối lượng ban đầu của tôm (g)

F: Lượng thức ăn tiêu thụ (g)

Tỷ lệ chuyển đổi thức ăn

Tỷ lệ chuyển đổi thức ăn có thể được tính bằng công thức theo Halver và Hardy (2002), như sau:

Trong đó:

P: Tổng lượng thức ăn tiêu thụ (g)

Bt : Sinh khối tôm cuối cùng (g)

Bd: Sinh khối tôm chết (g)

Bo: Sinh khối tôm ban đầu (g)

Tỷ lệ hiệu quả protein

Tỷ lệ hiệu quả protein (PER) có thể được tính bằng công thức theo Tacon (1993), như sau:

Trong đó:

Wt: Trọng lượng cuối cùng của cá (g)

W0: Khối lượng ban đầu của cá (g)

Pi: Lượng protein tiêu thụ (g)

Tỉ lệ sống sót

Công thức tỷ lệ sống sót dựa trên Effendie (1997) là:

Trong đó:

SR: Tỷ lệ sống sót (%)

Nt: Số lượng cá thể khi kết thúc nghiên cứu (con)

N0: Số lượng cá thể khi bắt đầu nghiên cứu (con)

Chất lượng nước

Các phép đo chất lượng nước bao gồm: nhiệt độ, pH, độ mặn, oxy hòa tan (DO) được đo bằng Máy kiểm tra chất lượng nước (WQC) lúc 8 giờ sáng và 4 giờ chiều và việc đo amoniac được thực hiện khi bắt đầu và kết thúc nuôi bằng cách lấy mẫu nước ngẫu nhiên từ tất cả các nghiệm thức và lặp lại. Phân tích dữ liệu Dữ liệu thu được được phân tích thống kê bằng cách thực hiện kiểm tra tính chuẩn, kiểm tra tính đồng nhất và kiểm tra tính cộng. Các kết quả thu được sau đó được phân tích phương sai (ANOVA). Phân tích phương sai của thử nghiệm F được sử dụng để xác định sự khác biệt giữa mức độ tin cậy 95% (P<0,05) và 99% (P<0,01). Các bước này là yêu cầu để tiến hành Thiết kế hoàn toàn ngẫu nhiên (Hidayat và cộng sự, 2014). Srigandono (1981) đã tuyên bố rằng nếu kết quả phân tích phương sai (ANOVA) có tác động đáng kể (P<0,05) hoặc rất đáng kể (P<0,01), thử nghiệm Đa vùng Duncan được tiến hành để xác định sự khác biệt trong giá trị trung bình giữa các nghiệm thức. Phân tích dữ liệu chất lượng nước được thực hiện một cách mô tả để so sánh sâu hơn với giá trị khả thi trong tài liệu tham khảo hiện có. Dữ liệu chất lượng nước được phân tích mô tả.

Kết quả

Tổng mức tiêu thụ thức ăn (TKP)

Dựa trên nghiên cứu, kết quả thu được từ tổng mức tiêu thụ thức ăn của tôm thẻ chân trắng (L. vannamei) giống được trình bày trong Hình 1.

Hình 1. Tổng mức tiêu thụ thức ăn của tôm thẻ chân trắng (L. vannamei)

Dựa trên các phép đo này, có thể thấy rằng tổng lượng thức ăn cao nhất của tôm post L. vannamei được xử lý bằng một lượng bột giun biển (Nereis sp.) lên tới 30% (C), tức là là 80,61 gam và tổng giá trị tiêu hao thức ăn thấp nhất với giá trị 75,21 gam ở nghiệm thức với liều lượng bột giun biển (Nereis sp.) 0% (A). Kết quả phân tích phương sai (ANOVA) cho thấy hiệu quả rõ rệt (P<0,05).

Tốc độ tăng trưởng tương đối (RGR)

Dựa trên nghiên cứu, kết quả thu được từ tốc độ tăng trưởng tương đối của tôm post L. vannamei được trình bày trong Hình 2.

Hình 2. Tốc độ tăng trưởng tương đối của tôm thẻ chân trắng (L. vannamei)

Dựa trên các phép đo này, có thể thấy rằng tốc độ tăng trưởng tương đối của tôm post L. vannamei cao nhất trong nghiệm thức với liều lượng bột giun biển (Nereis sp.) lên tới 30% (C) là 3,84%/ngày, thấp nhất là ở nghiệm thức bằng bột giun biển (Nereis sp.) 0% (A) là 2,78%/ngày. Kết quả phân tích phương sai (ANOVA) cho thấy hiệu quả rõ rệt (P<0,05).

Hiệu quả sử dụng thức ăn (EPP)

Dựa trên nghiên cứu, kết quả thu được từ hiệu quả sử dụng thức ăn của tôm post L. vannamei được trình bày trong Hình 3.

Hình 3. Hiệu quả sử dụng thức ăn của tôm thẻ chân trắng (L. vannamei)

Dựa trên các phép đo này, có thể thấy rằng hiệu quả sử dụng thức ăn của tôm post (L. vannamei) là cao nhất trong nghiệm thức với liều lượng bột giun biển (Nereis sp.) lên tới 30% (C) là 72,01% và thấp nhất là ở nghiệm thức bằng bột giun biển (Nereis sp.) 0% (A) với giá trị là 55,94%. Kết quả phân tích phương sai (ANOVA) cho thấy hiệu quả rõ rệt (P<0,05).

Tỷ lệ chuyển đổi thức ăn (FCR)

Dựa trên nghiên cứu, kết quả thu được từ tỷ lệ chuyển hóa thức ăn của tôm post L. vannamei được trình bày trên Hình 4.

Dựa trên các phép đo này, có thể thấy rằng tỷ lệ chuyển đổi thức ăn của tôm post (L. vannamei) cao nhất ở nghiệm thức với liều lượng bột giun biển (Nereis sp.) lên tới 0% (A) là 1,89% và thấp nhất là ở nghiệm thức sử dụng bột giun biển (Nereis sp.) 30% (C) là 1,39%. Kết quả phân tích phương sai (ANOVA) cho thấy hiệu quả rõ rệt (P<0,05).

Hình 4. Tỷ lệ chuyển đổi thức ăn của tôm thẻ chân trắng (L. vannamei)

Tỷ lệ hiệu quả protein

Dựa trên nghiên cứu, kết quả thu được từ tỷ lệ hiệu quả sử dụng protein của tôm post (L. vannamei) được trình bày trong Hình 5.

Hình 5. Tỷ lệ hiệu quả sử dụng protein của tôm thẻ chân trắng (L. vannamei)

Dựa trên những kết quả này, có thể thấy rằng giá trị tỷ lệ hiệu quả protein (PER) cao nhất trong thức ăn tôm post (L. vannamei) được tìm thấy trong nghiệm thức với liều lượng bột giun biển (Nereis sp.) 30% (C) là 1,67% và thấp nhất ở nghiệm thức với liều lượng bột giun biển (Nereis sp.) 0% (A) là 1,39%. Kết quả phân tích phương sai (ANOVA) cho thấy hiệu quả rõ rệt (P<0,05).

Tỷ lệ sống (SR)

Dựa trên nghiên cứu, kết quả thu được từ tỷ lệ sống của tôm post (L. vannamei) được trình bày trong Hình 6.

Hình 6. Tỷ lệ sống của tôm thẻ chân trắng (L. vannamei)

Dựa trên những kết quả này có thể thấy giá trị tỷ lệ sống (SR) cao nhất của tôm post L. vannamei là ở nghiệm thức sử dụng bột giun biển (Nereis sp.) với liều lượng 30% (C) và xử lý bằng bột giun biển (Nereis sp.) với liều lượng 35% (D), tương đương 100,00%. Nghiệm thức bằng bột giun biển (Nereis sp.) 0% (A) có tỷ lệ sống thấp nhất là 92,22%.

Chất lượng nước

Dựa trên nghiên cứu đã được thực hiện, giá trị chất lượng nước đạt được khi nuôi tôm post L. vannamei trong quá trình nghiên cứu. Các thông số chất lượng nước được đo bao gồm oxy hòa tan (DO), pH, nhiệt độ, độ mặn và amoniac. Kết quả đo chất lượng nước được trình bày ở Bảng 3.

Bảng 3. Kết quả đo các thông số chất lượng nước sau ương tôm thẻ chân trắng (L. vannamei) trong quá trình nuôi

Trong dó:

a: Ghufron và cộng sự, (2017)

b: Arsad và cộng sự, (2017)

c: Tibun và cộng sự, (2015)

Từ kết quả này, có thể thấy chất lượng nước trong quá trình nuôi vẫn khả thi để nuôi tôm post L. vannamei.

Thảo luận

Sự tăng trưởng

Theo kết quả nghiên cứu, việc thay thế bột cá bằng bột giun biển (Nereis sp.) với liều lượng khác nhau trong mỗi lần điều trị có tác động đáng kể đến sự phát triển của tôm post L. vannamei được nuôi trong 42 ngày. Sự tăng trưởng xảy ra do những thay đổi về trọng lượng trung bình trong quá trình nuôi (Putri và cộng sự, D 2020). Tahe và Hidayat (2011) cho rằng cho ăn bằng thức ăn chất lượng cao là yêu cầu tuyệt đối cho sự tăng trưởng và sản xuất tôm. Một số yếu tố ảnh hưởng đến tăng trưởng, bao gồm chất lượng thức ăn và nước. Các yếu tố chính đóng vai trò quyết định sự tăng trưởng và tỷ lệ sống là hàm lượng dinh dưỡng trong thức ăn (Herawati 2014). Theo Pinandoyo và cộng sự (2016), việc sử dụng thức ăn hiệu quả sẽ có tác động tích cực đến chi phí sản xuất và chất lượng nước. Dựa trên tuyên bố của Aalimahmoudi và cộng sự (2016), việc quản lý việc cho ăn chẳng hạn như thời gian và tần suất cho ăn có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của tôm. Điều kiện chất lượng nước phù hợp sẽ hỗ trợ quá trình phát triển của tôm. Hiệu suất tăng trưởng của tôm bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi chất lượng nước (Chen và cộng sự, 2019).

Sự tăng trưởng của tôm post L. vannamei được nuôi cho kết quả tốt. Liều lượng bột Nereis sp. được sử dụng ở các nghiệm thức A (0% bột Nereis sp.), B (25% bột Nereis sp.), C (30% bột Nereis sp.) và D (35% bột Nereis sp.). Dựa trên kết quả phân tích thành phần, hàm lượng protein trong mỗi loại thức ăn thử nghiệm chứa (A) 42,95% protein, (B) 47,69%, (C) 48,78% và (D) 47,33%. Giá trị protein trong thức ăn thử nghiệm có thể đáp ứng nhu cầu và hỗ trợ sự phát triển của tôm post L. vannamei. Nhu cầu protein để hỗ trợ sự tăng trưởng và tỷ lệ sống của tôm post L. vannamei dao động từ 30 – 50% (Yustianti et al., 2013). Việc sử dụng bột giun biển (Nereis sp.) thay thế bột cá trong thức ăn do hàm lượng dinh dưỡng cao của bột Nereis sp. có thể đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng của tôm thẻ chân trắng (L. vannamei). Theo Yuwono (2005), Nereis sp. chứa protein và chất béo với lượng có thể đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng của nhiều loài tôm khác nhau. Hadiyanto (2013), cho biết nguồn giun biển dồi dào đã được sử dụng rộng rãi làm thức ăn cho nhiều loại tôm khác nhau.

Theo những phát hiện này, kết quả có ảnh hưởng đáng kể (P<0,05) đến các biến được đo. Kết quả của các biến được đo, bao gồm TKP, RGR, EPP, FCR và PER, được cho là có khả năng mang lại sự tăng trưởng tối ưu cho tôm post L. vannamei. Tăng trưởng tối ưu vì thức ăn có thể đáp ứng được nhu cầu dinh dưỡng của tôm thẻ chân trắng (L. vannamei). Thức ăn có hàm lượng protein cao có thể giúp tôm phát triển (Li và cộng sự, 2015). Với giá trị 61,11% bột Nereis sp. là nguồn cung cấp protein cao chính trong thức ăn thử nghiệm. Hàm lượng protein của bột Nereis sp. Tỷ lệ này cao hơn so với bột cá và bột ấu trùng, trong đó bột ấu trùng cũng đã được nghiên cứu rộng rãi để thay thế bột cá trong thức ăn chăn nuôi. Theo Hernowo và cộng sự (2020), bột cá chứa 45,70% protein. Herawati và cộng sự (2019) phát hiện bột ấu trùng có hàm lượng protein là 44,88%. Khi so sánh với hàm lượng protein trong bột giun biển (Nereis sp.), cả hai hàm lượng protein này đều kém giá trị hơn.

Protein và chất béo là hai chất dinh dưỡng quan trọng nhất đối với tôm và ngành công nghiệp thức ăn cho cá và tôm (Kiron và cộng sự, 2012). Theo Pinandoyo và cộng sự (2014), lượng nguyên liệu thực phẩm cơ bản chứa protein ảnh hưởng đến mức độ cân bằng axit amin thiết yếu. Jin và cộng sự (2019) tuyên bố rằng thức ăn cho tôm cần có chứa axit amin cân bằng để tăng trưởng tốt. Giun biển (Nereis sp.) có hàm lượng dinh dưỡng cao như protein, axit amin và axit béo. Theo Yuwono (2005), hàm lượng protein và chất béo của giun biển (Nereis sp.) đủ đáp ứng nhu cầu của nhiều loài tôm khác nhau. Axit amin trong bột Nereis sp. phù hợp hơn với nhu cầu tôm, có hàm lượng methionine, phenylalanine và lysine cao. Những axit amin này được biết là hoạt động như chất hấp dẫn hóa học, có thể kích thích sự thèm ăn và hỗ trợ sự phát triển của tôm. Axit linoleic, axit linolenic, axit stearic và EPA là một số axit béo có trong giun biển (Nereis sp.) và được bao gồm trong các axit béo cần thiết cho tôm. Trên cơ sở này, bột Nereis sp. có thể tối ưu hóa sự tăng trưởng của tôm.

Kết quả tính toán tổng số liệu tiêu thụ thức ăn (TKP) cho thấy ở nghiệm thức (C) cao nhất là 80,61 g và thấp nhất ở nghiệm thức (A) là 75,21 g. Lượng thức ăn tiêu thụ mỗi ngày trong thời gian nghiên cứu được gọi là mức độ tiêu thụ thức ăn (Hidayat và cộng sự, 2014). Lượng thức ăn tiêu thụ có tác động đáng kể đến sự phát triển của tôm thẻ chân trắng. Tiêu thụ thức ăn càng cao thì cơ thể tôm có thể tạo ra càng nhiều năng lượng. Năng lượng sẽ được sử dụng cho quá trình trao đổi chất và tăng trưởng của tôm. Coelho và cộng sự (2019) tuyên bố rằng năng lượng thu được từ việc tiêu thụ thức ăn được sử dụng cho quá trình trao đổi chất và tăng trưởng của tôm. Theo Susanti và cộng sự (2015), tốc độ tăng trưởng cao bị ảnh hưởng bởi mức tiêu thụ thức ăn cao.

Mức độ tiêu thụ thức ăn có thể bị ảnh hưởng bởi một số yếu tố, bao gồm cả tình trạng của thức ăn được cung cấp. Chúng bao gồm mức độ ngon miệng của thức ăn, kích thước, mùi, vị và màu sắc của thức ăn. Theo Abidin và cộng sự (2015), các yếu tố vật lý và hóa học của thức ăn như độ ngon, mùi vị, màu sắc của thức ăn ảnh hưởng đến mức độ tiêu thụ thức ăn. Thức ăn thử nghiệm được cung cấp có cùng kích thước tùy theo độ mở miệng của ấu trùng tôm thẻ chân trắng (L. vannamei) được nuôi. Thức ăn thử nghiệm ở dạng vụn, có sự khác biệt nhỏ về mùi và màu giữa các thức ăn xử lý. Ở nghiệm thức A (0% bột Nereis sp.) nhìn chung có mùi giống thức ăn, nhưng mùi nồng hơn và có mùi giống bột cá, ngoài ra màu trông sẫm hơn so với nghiệm thức B (25% bột Nereis sp.) và C (30% bột Nereis sp.).

Điều này có lẽ là do thức ăn A (0% bột Nereis sp.) có thành phần nguyên liệu thô cao nhất trong bột cá. Ở nghiệm thức B (25% bột Nereis sp.), C (30% bột Nereis sp.) và D (35% bột Nereis sp.) có mùi dễ chịu hơn thức ăn A (0% bột Nereis sp.). Màu của thức ăn xử lý (B) và (C) không đậm như trong thức ăn xử lý (A) và (D). Điều này có lẽ là do thức ăn (D) chứa thành phần nguyên liệu thô lớn nhất ở Nereis sp. để nguồn thức ăn (D) có màu đậm hơn. Trong quá trình nghiên cứu có thể thấy phản ứng của tôm với thức ăn có bột Nereis sp. rất cao. Theo Yuwono (2005), bột giun có chứa các axit amin methionone, phenylalanine và lysine, hoạt động như chất hấp dẫn hóa học và có thể làm tăng sự thèm ăn của tôm. Khasani (2013) cho rằng các chất hấp dẫn được tạo ra từ các axit amin tự do.

Dựa trên tính toán dữ liệu tốc độ tăng trưởng tương đối (RGR), giá trị cao nhất đạt được ở nghiệm thức với liều 30% bột Nereis sp. (C) tức là 3,84%/ngày và thấp nhất là ở nghiệm thức Nereis sp. với liều lượng 0% (A) là 2,78%/ngày. Tốc độ tăng trưởng thể hiện tỷ lệ tăng trọng của tôm mỗi ngày trong thời gian nghiên cứu (Rachmawati và Samidjan, 2013). Tốc độ tăng trưởng tương đối cao nhất được xử lý với liều 30% bột Nereis sp. (C) trở thành liều lượng tốt nhất hỗ trợ sự phát triển của ấu trùng tôm thẻ chân trắng được nuôi trong 42 ngày. Ấu trùng tôm thẻ chân trắng (L. vannamei) được nuôi có thể sử dụng tốt thức ăn được cung cấp, trong đó ở nghiệm thức (C) là liều thức ăn thử nghiệm tốt nhất. Các yếu tố ảnh hưởng đến tăng trưởng bao gồm thức ăn, đặc điểm di truyền và chất lượng nước (Manganang và Numisye, 2019). Tốc độ tăng trưởng cao kéo theo giá trị hiệu quả sử dụng thức ăn cao. Mukhlis và cộng sự (2020) cho rằng hiệu quả sử dụng thức ăn có liên quan chặt chẽ đến mức tăng trọng trung bình hàng ngày của cơ thể và mức tiêu thụ thức ăn.

Hiệu suất sử dụng thức ăn cao (EPP) sẽ mang lại tốc độ tăng trưởng cao nhờ điều kiện môi trường phù hợp. Simon và cộng sự, (2020) cho rằng sự tăng trưởng đó tăng lên do thành phần thức ăn phù hợp và tỷ lệ ăn vào cao. Hiệu quả sử dụng thức ăn là tỷ lệ giữa tăng trọng và lượng thức ăn được cung cấp trong quá trình nghiên cứu. Theo Taqwdasbriliani và cộng sự (2013), hiệu quả sử dụng thức ăn là lượng thức ăn được cơ thể tôm sử dụng. Dựa vào kết quả tính toán hiệu quả sử dụng các biến số thức ăn có thể thấy giá trị cao nhất ở nghiệm thức C (30% bột Nereis sp.) là 72,01%. Ấu trùng tôm thẻ chân trắng trong nghiệm thức này có thể tiêu thụ thức ăn tốt. Theo Isawati và cộng sự (2015), việc sử dụng thức ăn hiệu quả sẽ mang lại giá trị hiệu quả cao trong việc sử dụng thức ăn, nhờ đó có thể đáp ứng nhu cầu năng lượng của cơ thể tôm và phần còn lại được sử dụng cho tăng trưởng.

Giá trị tăng trưởng cao và hiệu quả sử dụng thức ăn kéo theo tỷ lệ chuyển đổi thức ăn (FCR) thấp. Dahlan và cộng sự (2017) cho rằng giá trị của tỷ lệ chuyển đổi thức ăn tỷ lệ nghịch với tăng trọng, do đó giá trị càng thấp thì tôm sử dụng thức ăn càng hiệu quả. Herawati và cộng sự (2021) tuyên bố rằng giá trị FCR càng thấp thì nuôi tôm càng hiệu quả trong việc chuyển đổi thức ăn thành nguồn năng lượng. Giá trị của tỷ lệ chuyển đổi thức ăn có thể bị ảnh hưởng bởi chất lượng nước. Bachrudin và cộng sự (2018) cho rằng chuyển đổi thức ăn là yếu tố quyết định sự tăng trưởng và tỷ lệ sống, bị ảnh hưởng bởi độ mặn và nhiệt độ. Theo Pinandoyo và cộng sự (2017), việc cho ăn no có thể làm giảm nguy cơ lãng phí thức ăn để giảm FCR. Dựa trên kết quả nghiên cứu cho thấy rằng giá trị FCR thấp nhất là ở nghiệm thức C (30% bột Nereis sp.), là 1,39% và cao nhất là ở nghiệm thức A (0% bột Nereis sp.) là 1,8%. Giá trị này được xếp vào loại tốt cho tôm thẻ chân trắng. Bahri và cộng sự (2020) cho thấy giá trị của hệ số chuyển đổi thức ăn tốt cho tôm thẻ chân trắng là 1,3-1,4, nghĩa là để có được 1 kg tôm phải cần 1,3-1,4 kg thức ăn. Fahrizal và Nasir (2017) cho rằng chuyển đổi thức ăn là khả năng tôm chuyển đổi thức ăn thành cơ thịt.

Tỷ lệ chuyển đổi thức ăn thấp dẫn đến tăng trưởng cao. Dựa trên kết quả đo lường tất cả các biến số cho thấy rằng mức tăng trưởng cao nhất được tìm thấy ở nghiệm thức C (30% bột Nereis sp.) và mức tăng trưởng thấp nhất là ở nghiệm thức A (0% bột Nereis sp.). Dựa vào đó, việc thay thế bột cá bằng bột Nereis sp. với liều lượng 30% giúp tôm thẻ chân trắng (L. vannamei) tăng trưởng tối ưu trong 42 ngày. Nghiên cứu này được so sánh với các nghiên cứu khác sử dụng bột ấu trùng thay thế bột cá và các nghiên cứu chỉ sử dụng thức ăn công nghiệp. Sự tăng trưởng của tôm post L. vannamei với thức ăn sử dụng 30% bột Nereis sp. được quản lý tốt hơn để phát triển tốt và tối ưu. Theo nghiên cứu của Herawati và cộng sự (2019), tôm thẻ chân trắng khi sử dụng bột ấu trùng thay thế bột cá đạt tốc độ tăng trưởng tốt nhất ở liều lượng 16% bột ấu trùng với giá trị tỷ lệ chuyển đổi là 1,85%. Hakim và cộng sự (2018) đã sử dụng thức ăn thương mại cho tôm thẻ chân trắng có giá trị chuyển đổi thức ăn dao động từ 1,6-2,49%. Dựa trên điều này, việc sử dụng bột Nereis sp. tốt hơn để hỗ trợ sự phát triển của tôm thẻ chân trắng. Điều này là do bột giun biển (Nereis sp.) chứa protein, axit amin và axit béo cao, là những thành phần thiết yếu rất quan trọng cho sự phát triển của tôm. Li và cộng sự (2015) cho rằng protein, axit amin, lipid và axit béo là thành phần dinh dưỡng quan trọng trong thức ăn, có khả năng đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng của tôm và thúc đẩy tăng trưởng.

Protein cao có thể hỗ trợ sự phát triển của tôm thẻ chân trắng. Ảnh hưởng của giá trị protein đến sự tăng trưởng có thể được đo lường thông qua tỷ lệ hiệu quả protein thay đổi (PER). Tỷ lệ hiệu quả sử dụng protein là phần trăm trọng lượng protein trong thức ăn được cung cấp và sử dụng cho tăng trưởng (Hanief và cộng sự, 2014). Dựa trên kết quả nghiên cứu cho thấy rằng giá trị tỷ lệ hiệu quả sử dụng protein cao nhất là ở nghiệm thức C (30% bột Nereis sp.) là 1,67% và thấp nhất là ở nghiệm thức A (0% bột Nereis sp.) là 1,30%. Điều này phù hợp với kết quả phân tích thành phần về hàm lượng protein trong thức ăn thử nghiệm với giá trị cao nhất ở nghiệm thức (C) là 48,78% và thấp nhất ở nghiệm thức (A) là 42,95%. Giá trị này phù hợp với nhu cầu protein để hỗ trợ sự tăng trưởng và tỷ lệ sống của ấu trùng tôm thẻ chân trắng (L. vannamei) là 30-50% (Deslianti et al., 2016; Herawati et al., 2020). Giá trị PER cao cho thấy protein thức ăn có chất lượng cao và có thể hỗ trợ tôm tăng trưởng. Widyantoko và cộng sự (2015) cho rằng mức độ tiêu hóa protein ảnh hưởng đến chất lượng protein, trong đó protein dễ tiêu hóa cho thấy lượng axit amin được cơ thể hấp thụ cao hơn, do đó ảnh hưởng đến tăng trưởng. Bột Nereis sp. còn chứa các axit amin đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng của tôm thẻ chân trắng. Tôm có thể đáp ứng nhu cầu axit amin thiết yếu thông qua việc tiêu thụ thức ăn (Lee và Kyeong, 2018). Theo Riyanti và cộng sự (2020), protein chất lượng phải có khả năng tiêu hóa cao và lượng axit amin dồi dào tương tự loài được nuôi. Sự tăng trưởng của tôm có thể được hỗ trợ bởi các axit amin như glycine, alanine, proline và taurine (Li et al., 2015).

Tốc độ tăng trưởng cao bị ảnh hưởng bởi nguồn năng lượng sẵn có trong thức ăn được sử dụng cho tăng trưởng. Theo Resti và cộng sự (2021), sự tăng trưởng đó xảy ra nếu đáp ứng được nhu cầu về thức ăn để duy trì cơ thể, trong đó năng lượng thức ăn được sử dụng cho nhu cầu duy trì và phần còn lại dành cho tăng trưởng. Dựa vào kết quả tính toán cho thấy giá trị năng lượng trong mỗi nghiệm thức lần lượt là A (390,49 kcal/g), B (387,90 kcal/g), C (390,76 kcal/g) và D (391,17 kcal/g). Mức tăng trưởng cao nhất xảy ra ở nghiệm thức C (30% bột Nereis sp.) và thấp nhất là ở nghiệm thức A (0% bột Nereis sp.). Việc cung cấp đủ năng lượng thức ăn được hỗ trợ bởi sự cân bằng các chất dinh dưỡng trong thức ăn có thể hỗ trợ sự phát triển của tôm. Sự tăng trưởng cao ở nghiệm thức C (30% bột Nereis sp.) do tôm sử dụng tối đa năng lượng thức ăn để tăng trưởng. Hàm lượng chất béo cao trong thức ăn cụ thể là ở nghiệm thức C (9,95%) và A (7,46%), năng lượng đưa vào cần thiết để duy trì cơ thể không sử dụng nhiều protein mà được lấy từ chất béo được hỗ trợ bởi carbohydrate. Chất béo là nguồn năng lượng lớn nhất sau protein và carbohydrate (Marzuqi và Dewi, 2013). Panini và cộng sự (2017) cho rằng hàm lượng chất béo và axit béo trong thức ăn ảnh hưởng lớn đến mức năng lượng tiêu hóa trong thức ăn cho sự tăng trưởng.

Dựa vào giá trị năng lượng của thức ăn, có thể thấy hàm lượng năng lượng cao nhất là ở nghiệm thức D (391,17 kcal/g) và nhỏ nhất là ở nghiệm thức B (387,90 kcal/g). Ở nghiệm thức D, (35% bột Nereis sp.), có quá nhiều năng lượng. Lượng năng lượng sẵn có quá cao gây ra tăng trưởng kém hơn mức tối ưu vì nó có thể làm giảm mức tiêu thụ thức ăn, ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng thức ăn thấp, do đó gây ra tốc độ tăng trưởng thấp với tỷ lệ chuyển đổi thức ăn tăng và tỷ lệ hiệu quả protein thấp do protein kém hiệu quả hơn cho sự tăng trưởng. Aslamyah và Muh (2013) cho rằng hàm lượng năng lượng trong thức ăn quá cao và làm giảm lượng ăn vào, do đó giảm khả năng hấp thụ các chất dinh dưỡng khác, bao gồm cả protein để tăng trưởng. Theo Munisa và cộng sự (2015), năng lượng thức ăn ảnh hưởng đến mức tiêu thụ thức ăn. Nghiệm thức B (25% bột Nereis sp.) có năng lượng quá thấp so với các nghiệm thức khác. Căn cứ vào kết quả tính tỷ lệ protein năng lượng với kết quả ở từng nghiệm thức là A (8,98); B (8,93); C (8,99) và D (9,00), có thể thấy năng suất thấp nhất ở nghiệm thức B (25% bột Nereis sp.), nhưng kết quả tính toán các dữ liệu TKP, RGR, EPP, FCR và PER đều cao hơn nghiệm thức A (0% bột Nereis sp.) và D (35% bột Nereis sp.). Tôm ở nghiệm thức B (25% bột Nereis sp.) có thể sử dụng tốt các nguồn năng lượng phi protein để duy trì cơ thể so với nghiệm thức A (0% bột Nereis sp.) và D (35% bột Nereis sp.). Hàm lượng chất béo ở nghiệm thức B (9,74%) cao hơn nghiệm thức A (7,46%) và D (9,23%). Sự tăng trưởng cao nhất ở nghiệm thức C (30% bột Nereis sp.) là do nguồn năng lượng sẵn có với các nguồn năng lượng protein và phi protein cân bằng đủ để hỗ trợ tôm tăng trưởng hợp lý. Theo Tahapari và Jadmiko (2018), năng lượng protein thức ăn cân bằng đóng vai trò hỗ trợ tăng trưởng.

Tỷ lệ sống sót (SR)

Dựa vào kết quả nghiên cứu, có thể thấy giá trị sống của tôm post L. vannamei nuôi trong 42 ngày đạt cao nhất ở nghiệm thức C (30% bột Nereis sp.) và nghiệm thức D (35% bột Nereis sp.), là 100% và tiếp theo là ở nghiệm thức B (25% bột Nereis sp.) là 98,89% và thấp nhất là ở nghiệm thức A (0% bột Nereis sp.) là 92,22%. Theo Herawati và cộng sự (2020), tỷ lệ sống đạt 95% do thức ăn có chứa hàm lượng protein cao. Giá trị này biểu hiện cho tỷ lệ sống tốt. Permanti và cộng sự (2017) cho rằng tỷ lệ sống được phân loại là cao nếu giá trị SR > 70%, loại trung bình dành cho giá trị SR là 50-60% và thấp đối với giá trị SR là 50%. Có một số yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ sống của ấu trùng tôm thẻ chân trắng. Những yếu tố này bao gồm chất lượng nước, phương tiện nuôi và thức ăn (Respati và cộng sự, 2021). Tôm chết trong nghiên cứu này là do ăn thịt đồng loại, được cho là do tôm khỏe tấn công tôm yếu do lột xác. Hiện tượng ăn thịt đồng loại có thể phát sinh do tôm khỏe tấn công tôm yếu sau khi lột xác (Anita et al., 2017).

Chất lượng nước

Dựa trên kết quả nghiên cứu, chúng tôi đã thu được dữ liệu về chất lượng nước trên môi trường nuôi, trong đó các thông số được đo bao gồm nhiệt độ, độ pH, oxy hòa tan (DO), độ mặn và amoniac. Chất lượng nước ảnh hưởng gián tiép đến sự thèm ăn của tôm từ đó ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và tỷ lệ sống của tôm (Pinandoyo et al., 2020). Dựa trên kết quả đo, chất lượng nước môi trường nuôi tôm post (L. vannamei) trong 42 ngày vẫn nằm trong giới hạn hợp lý nên có thể hỗ trợ sinh trưởng và tỷ lệ sống. Theo Venkateswarlu et al. (2019), chất lượng nước rất quan trọng để tăng sản lượng nuôi tôm. Putri và cộng sự (2020) cho rằng chất lượng nước tốt cũng hỗ trợ quá trình trao đổi chất và sinh lý tốt. Quản lý việc cho ăn ảnh hưởng đến điều kiện chất lượng nước, trong đó tần suất cho ăn ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng và chất lượng nước. Tần suất cho ăn không quá 4 lần mỗi ngày có thể giúp tôm tăng trưởng và chất lượng nước tốt (Aalimahmoudi et al., 2016).

Nhiệt độ của môi trường nuôi trong thời gian nghiên cứu dao động từ 28,2- 32,4℃. Giá trị này vẫn đủ tốt để hỗ trợ sự phát triển của ấu trùng tôm thẻ chân trắng. Theo Ghufron và cộng sự (2017), nhiệt độ tối ưu cần cho tôm thẻ chân trắng là 28-32℃. Gaona và cộng sự (2011) cho biết tôm thẻ chân trắng (L. vannamei) có khả năng chịu nhiệt độ từ 15-35℃. Nhiệt độ có thể ảnh hưởng đến sự thèm ăn, nếu nhiệt độ tăng thì mức độ tiêu thụ thức ăn sẽ tăng lên và nếu nhiệt độ giảm thì sự thèm ăn sẽ giảm và quá trình tiêu hóa và trao đổi chất sẽ chậm lại (Mulyani et al., 2014). Giá trị pH nằm trong khoảng 7,41-8,3. Giá trị này là tối ưu để hỗ trợ sự tăng trưởng và tỷ lệ sống của tôm thẻ chân trắng. Giá trị pH tối ưu cho tôm phát triển dao động từ 7-8,5. Tôm có thể chịu được giá trị pH trong khoảng 6,5-9. Giá trị pH nằm dưới phạm vi dung sai có thể làm gián đoạn quá trình lột xác, khiến vỏ mềm và tỷ lệ sống thấp (Arsad và cộng sự, 2017).

Một thông số chất lượng nước khác là lượng oxy hòa tan (DO), vì giá trị DO dao động trong khoảng 3,89-5,67 mg/l. Giá trị này tốt cho việc hỗ trợ sự tăng trưởng và tỷ lệ sống của tôm thẻ chân trắng. Dahlan và cộng sự (2017) cho rằng giá trị oxy hòa tan hỗ trợ sự sống của tôm thẻ chân trắng là > 3 mg/l. Độ mặn trong nước nuôi dao động từ 29-32 ppt. Giá trị này phù hợp với giá trị độ mặn hỗ trợ sự sinh trưởng của tôm thẻ chân trắng. Theo Tibun và cộng sự (2015), độ mặn tối ưu cho ấu trùng tôm thẻ chân tắng dao động từ 28-32 ppt. Tôm thẻ chân trắng có đặc tính euryhaline cho phép chúng sống ở độ mặn 0,5-40 ppt (Febriani et al., 2018).

Amoniac thu được từ kết quả đo khi bắt đầu bảo trì là 0,023 mg/l và khi kết thúc bảo trì là 0,19 mg/l. Giá trị amoniac vẫn nằm trong giới hạn chịu đựng của tôm thẻ chân trắng nên không ảnh hưởng quá xấu đến sự sinh trưởng và tỷ lệ sống của ấu trùng tôm thẻ chân trắng. Herawati và cộng sự (2019) cho rằng giá trị amoniac đối với tôm phải thấp hơn 1 ppm. Perez và cộng sự (2013) cho rằng tổng lượng amoniac mà tôm thẻ chân trắng có thể dung nạp là 0-1,0 mg/l. Hàm lượng amoniac cao là do sự tích tụ cặn thức ăn và phân dưới đáy có thể làm tăng hàm lượng nitrit độc hại, khiến tôm chậm phát triển và chết (Arsad và cộng sự, 2017). Điều này có thể được khắc phục bằng cách hút nước được thực hiện thường xuyên và hệ thống sục khí liên tục để chất lượng nước vẫn ổn định và nằm trong phạm vi hợp lý (Pinandoyo et al., 2016).

Kết luận

Các kết luận có thể thu được từ nghiên cứu này như sau:

  1. Thay thế bột cá bằng bột Nereis sp. có ảnh hưởng đáng kể (P < 0,05) đến sự phát triển của ấu trùng tôm thẻ chân trắng (L. vannamei). Liều tốt nhất có tốc độ tăng trưởng cao nhất là ở nghiệm thức C (30% bột Nereis sp.) với TKP (80,61%), RGR (3,84%/ngày), EPP (72,01%), FCR (1,39%) và PER. (1,67%). Tốc độ tăng trưởng thấp nhất ở nghiệm thức A (0% bột Nereis sp.) với TKP (75,21%), RGR (2,78%/ngày), EPP (55,94%), FCR (1,89%) và PER (1,30%).
  2. Thay thế bột cá bằng bột Nereis sp. có ảnh hưởng đáng kể (P<0,05) đến tỷ lệ sống của ấu trùng tôm thẻ chân trắng (L. vannamei). Liều tốt nhất đạt tỷ lệ sống cao nhất là ở nghiệm thức C (30% bột Nereis sp.) với giá trị 100,00% và thấp nhất là ở nghiệm thức A (0% bột Nereis sp.) là 92,22%.

Theo Pinandoyo, Dewi Meisita, Lestari Lakhsmi Widowatic, Vivi Endar Herawati

Nguồn: https://www.academia.edu/92326452/Effect_of_Fish_Meal_Substitution_with_Sea_Worm_Flour_Nereis_sp_in_Diet_on_Growth_and_Survival_Rate_of_Pacific_White_Shrimp_Litopenaeus_vannamei_Post_Larvae

Biên dịch: Nguyễn Thị Quyên – Tôm Giống Gia Hóa Bình Minh

TÔM GIỐNG GIA HÓA – CHÌA KHÓA THÀNH CÔNG

Xem thêm:

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

You cannot copy content of this page