Đây là thông tin hiển thị trên website, KHÔNG dùng để quét mã QR. Vui lòng liên hệ 1900 86 68 69 nếu link QR dẫn đến trang web này.
Đây là thông tin hiển thị trên website, KHÔNG dùng để quét mã QR. Vui lòng liên hệ 1900 86 68 69 nếu link QR dẫn đến trang web này.

Nhân sâm Trung Quốc có thể cải thiện phản ứng miễn dịch và biểu hiện enzyme tiêu hóa của L. vannamei

Nghiên cứu này xem xét tác động của chiết xuất nước nhân sâm Trung Quốc (Panax notoginseng), PNWE, đối với phản ứng miễn dịch và hoạt tính của enzyme tiêu hóa của tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei). Ảnh của Peachyeung316, qua Wikimedia Commons.

Nhiều sản phẩm thảo dược khác nhau của Trung Quốc đã được chứng minh là có khả năng điều chỉnh hệ thống miễn dịch của động vật thủy sản nuôi và có thể là một lựa chọn tiềm năng để quản lý dịch bệnh trong nuôi trồng thủy sản, bao gồm cả sản xuất tôm nuôi.

Một trong những sản phẩm này là nhân sâm Trung Quốc (Panax notoginseng), được sản xuất chủ yếu ở Nhật Bản, Myanmar và các vùng Tây Nam Trung Quốc. Hơn 200 hoạt chất như saponin, polyacetylenes, sterol, tinh dầu, flavonoid, polysaccharides, cyclopeptide và axit amin đã được xác định từ P. notoginseng. Các nghiên cứu khác nhau trên động vật thủy sản đã chứng minh rằng chiết xuất từ ​​P. notoginseng giúp tăng cường khả năng phát triển và chống oxy hóa của động vật.

Tế bào máu là tế bào tham gia vào hệ thống miễn dịch của động vật không xương sống và được tìm thấy trong hemolymp, dịch cơ thể ở động vật không xương sống và tương tự như máu ở động vật có xương sống – đóng vai trò chính trong hệ thống miễn dịch của tôm. Chúng chủ yếu kiểm soát cơ chế bảo vệ tế bào bằng cách giải phóng các yếu tố phòng vệ bảo vệ cơ thể tôm khỏi sự tấn công của mầm bệnh.

Tổng số lượng tế bào máu (THC) là một chỉ số quan trọng đánh giá sức mạnh miễn dịch của động vật và nhiều nghiên cứu khác nhau đã chứng minh rằng một số loại thực vật có thể làm tăng THC ở tôm; ví dụ, chiết xuất từ ​​lá cây Hoàng Kỳ (Astragalus membranaceus), Sâm đại hành (Eleutherinebulosa), chiết xuất từ ​​lá cây chùm ngây (Moringa oleifera), chiết xuất từ ​​cây Diệp hạ châu đắng (Phyllanthus amarus) và chiết xuất từ ​​cây cà dược Ấn Độ (Solanum ferox) và gừng đắng (Zingiber zerumbet).

Bài viết này – được tóm tắt từ ấn phẩm gốc (Chen, YT. và cộng sự. 2023. Tác dụng của chiết xuất nước Panax notoginseng đối với phản ứng miễn dịch và enzyme tiêu hóa ở tôm thẻ chân trắng Litopenaeus vannamei. Động vật 2023, 13(7), 1131) – trình bày kết quả của một nghiên cứu đánh giá tác động của chiết xuất nước nhân sâm Trung Quốc (PNWE) đối với phản ứng miễn dịch và chức năng enzyme tiêu hóa của L. vannamei.

Thiết lập nghiên cứu

Tôm con L. vannamei (3,8 ± 0,5 gram (trung bình ± SD)) được cung cấp bởi Khoa Nuôi trồng Thủy sản, Đại học Khoa học và Công nghệ Quốc gia Bình Đông. Chúng được cho thích nghi trong phòng nhân giống động vật thủy sản của Đại học Khoa học và Công nghệ Quốc gia Cao Hùng trong 7 ngày và cho ăn thức ăn tôm công nghiệp 2 lần/ ngày.Trong thử nghiệm, tôm (60 con/nhóm) được nuôi trong bể 250 lít chứa 200 lít nước biển ở độ mặn 15 ppt, nhiệt độ nước được duy trì ở mức 25 ± 1℃, giá trị pH ở mức 7,8–8,0 và chúng được cho ăn 2 lần/ngày bằng thức ăn tôm thương mại ở mức (8% trọng lượng cơ thể).

4 nghiệm thức đã được sử dụng, bao gồm nhóm đối chứng và ba nồng độ khác nhau của PNWE (50, 100 và 200 µg/g tôm). Khoảng 20 µL dung dịch PNWE được tiêm vào cơ của phần bụng thứ hai đến thứ ba của mỗi con tôm để đạt được liều tương ứng là 50, 100 và 200 µg/g trọng lượng cơ thể. Nhóm đối chứng bao gồm tôm chỉ được tiêm 20µL dung dịch muối.

Tại mỗi thời điểm (12, 24, 48, 72, 168 và 240 giờ) sau khi tiêm, 10 con tôm được thu thập trong mỗi lần điều trị từ mỗi nhóm. Hemolymp của chúng được lấy mẫu để phân tích một số thông số miễn dịch, bao gồm THC, và ruột được lấy mẫu để đo hoạt tính của các enzym tiêu hóa khác nhau trong ruột cũng như số lượng Vibrio bên trong ruột. Cả gan tụy và ruột đều được lấy mẫu sau 240 giờ để quan sát mô bệnh học.

Để biết thông tin chi tiết về thiết kế thí nghiệm, chăn nuôi, chuẩn bị các giải pháp PNWE thử nghiệm, đo các thông số miễn dịch và hoạt động của enzyme tiêu hóa cũng như phân tích dữ liệu, hãy tham khảo ấn phẩm gốc.

Kết quả và thảo luận

Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng các nồng độ khác nhau của PNWE làm tăng đáng kể một số thông số miễn dịch – bao gồm tổng số lượng tế bào máu (THC), tế bào máu hạt (GC) và tế bào máu bán hạt (SGC) và cũng làm tăng đáng kể hoạt tính của các enzyme tiêu hóa khác nhau (chymotrypsin, trypsin và amylase) của L. vannamei.

Hơn nữa, PNWE ở liều lượng 50 µg/g tôm có tác dụng điều chỉnh hoạt tính của enzyme lipase. Ngoài ra, các nồng độ PNWE khác nhau làm giảm đáng kể số lượng Vibrio trong ruột mà không gây tổn hại đến gan tụy và mô ruột. Nhìn chung, những kết quả này chỉ ra rằng PNWE cải thiện phản ứng miễn dịch của tôm L. vannamei bằng cách tăng số lượng tế bào máu và điều hòa các enzyme tiêu hóa đường ruột.

Từ 24 đến 72 giờ sau khi tiêm, tổng số lượng tế bào máu (THC) của L. vannamei được tiêm 100 và 200 µg/g tôm của PNWE cao hơn đáng kể so với đối chứng (Hình 1A). Cuối cùng, từ 168 đến 240 giờ, các nồng độ PNWE khác nhau đã làm tăng đáng kể THC (p < 0,05). Từ 24 đến 240 giờ, tỷ lệ phần trăm tế bào máu hạt (GC, Hình 1B) và tế bào máu bán hạt (SGC, Hình 1C) của L. vannamei được tiêm với các nồng độ PNWE khác nhau cao hơn đáng kể so với đối chứng, trong khi đó tỷ lệ tế bào máu hialin (HC) thấp hơn đáng kể so với đối chứng (Hình 1 D). Tỷ lệ GC gia tăng nhiều nhất được quan sát thấy ở L. vannamei được tiêm 100 và 200 µg/g tôm có bổ sung PNWE.

Hình 1: Tổng số lượng tế bào máu, THC (A); tế bào máu dạng hạt, GC (B); tế bào máu bán hạt, SGC (C); và tế bào máu hialin, HC (D) của L. vannamei đã nhận được PNWE ở mức 50, 100 và 200 µg/g tôm và tôm đối chứng. Dữ liệu được biểu thị dưới dạng trung bình ± SD (n = 8). Các chữ cái chỉ số trên khác nhau cho thấy rằng cùng một thời gian phơi sáng có sự khác biệt đáng kể (p < 0,05) giữa các nhóm (thử nghiệm đa phạm vi của Duncan). PNWE: Chiết xuất nước Panax notoginseng . Chuyển thể từ bản gốc.

Ruột đóng một vai trò quan trọng trong việc lưu trữ thức ăn, tiêu hóa và hấp thụ chất dinh dưỡng. Ngoài ra, chúng còn đóng vai trò như một hàng rào miễn dịch quan trọng chống lại độc tố và các bệnh truyền nhiễm. Kết quả chứng minh rằng L. vannamei được tiêm PNWE cũng có hoạt tính tốt hơn của các enzyme tiêu hóa trypsin, chymotrypsin và amylase. Các enzyme tiêu hóa trong ruột có liên quan trực tiếp đến quá trình tiêu hóa và hấp thu chất dinh dưỡng cũng như hiệu suất tăng trưởng của động vật, ví dụ, trypsin tăng cường quá trình thủy phân protein, amylase xúc tác quá trình thủy phân tinh bột thành đường và chymotrypsin xúc tác quá trình thủy phân protein thành các peptide nhỏ hơn.

Kết quả của chúng tôi cho thấy L. vannamei được tiêm 50 µg/g tôm của PNWE đã cải thiện biểu hiện enzyme tiêu hóa trong khi việc tăng cường đáp ứng miễn dịch sẽ cần > 100 microgram/gram tôm. Do đó, cần phải có liều trên 100 µg/g tôm của PNWE để cải thiện cả phản ứng miễn dịch và biểu hiện enzyme tiêu hóa của L. vannamei.

Nhiều chất tự nhiên có tiềm năng được sử dụng làm chất điều hòa miễn dịch và chất kích thích tăng trưởng cho động vật thủy sản, chủ yếu có thể là do các thành phần hoạt tính của các chất tự nhiên. Trong số các chất này, saponin từ P. notoginseng (saponin là hợp chất tự nhiên phân bố rộng rãi trong tất cả các tế bào của cây họ đậu), là thành phần hoạt chất chính của rễ P. notoginseng. Các nhà nghiên cứu đã báo cáo rằng chiết xuất P. notoginseng có thể thúc đẩy sự phát triển của một số loài cá cũng như khả năng chống oxy hóa, chủ yếu từ các loại saponin khác nhau.

Nhìn chung, kết quả chỉ ra rằng PNWE đã cải thiện phản ứng miễn dịch và hoạt tính của enzyme tiêu hóa của L. vannamei, điều này có thể là do saponin từ P. notoginseng. Nghiên cứu trước đây đã chứng minh rằng PNWE chứa saponin notoginsenoside R1 ở mức 13,98 ± 2,60 mg mỗi gam và ginsenoside Rg1 ở mức 34,67 ± 5,51 mg mỗi gam.

Thảo luận

Kết quả của nghiên cứu này cho thấy PNWE tăng cường phản ứng miễn dịch của tôm thẻ chân trắng L. vannamei bằng cách tăng các thông số miễn dịch và hoạt động thực bào khác nhau trong khi duy trì hiệu suất tăng trưởng bằng cách điều chỉnh hoạt tính của các enzyme tiêu hóa đường ruột (trypsin, chymotrypsin, amylase và lipase). Nhìn chung, PNWE là chất điều hòa miễn dịch đầy hứa hẹn cho tôm với tiềm năng góp phần tạo điều kiện cho ngành nuôi trồng thủy sản phát triển bền vững.

Theo Tiến sĩ Shu-Ling Hsieh

Nguồn: https://www.globalseafood.org/advocate/effect-of-chinese-ginseng-water-extract-on-immune-responses-and-digestive-enzymes-in-pacific-white-shrimp/

Biên dịch: Nguyễn Thị Quyên – Tôm Giống Gia Hóa Bình Minh

TÔM GIỐNG GIA HÓA – CHÌA KHÓA THÀNH CÔNG

Xem thêm:

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

You cannot copy content of this page