Kết quả nghiên cứu này cho thấy bột mysid có thể là một giải pháp thay thế khả thi và kích thích tăng trưởng tôm ở mức thay thế 65,50%
Nghiên cứu này đánh giá tác dụng của bột mysid như một chất thay thế bột cá trong khẩu phần ăn của ấu trùng tôm thẻ chân trắng. Kết quả cho thấy bột mysid có thể thay thế tới 100% bột cá trong khẩu phần ăn của tôm thẻ chân trắng P. vannamei mà không có tác động tiêu cực nào đến tỷ lệ sống, tăng trưởng, sử dụng thức ăn và giữ lại chất dinh dưỡng, đồng thời cũng có thể thúc đẩy tăng trưởng của tôm ở mức thay thế 65,50%. Ảnh của S. Pothoven, Phòng thí nghiệm nghiên cứu môi trường Great Lakes (Miền công cộng, qua Wikimedia Commons).
Động vật phù du được đề xuất là nguồn thức ăn bền vững cho nuôi trồng thủy sản vì thành phần dinh dưỡng được báo cáo tương đương với bột cá. Năng suất sinh khối động vật phù du toàn cầu thường tạo ra hàng trăm triệu tấn và tốc độ luân chuyển sinh sản của chúng rất nhanh. Hầu hết lượng sinh khối lớn này không được sử dụng trong các sản phẩm thương mại và chỉ có một tỷ lệ nhỏ được thu hoạch, và có một niềm tin chung rằng sinh khối không được thu hoạch và sử dụng được coi là một nguồn tài nguyên sinh học bị lãng phí.
Trong số các giải pháp thay thế có thể đang được nghiên cứu, nhiều loài động vật phù du chưa được sử dụng hết với sinh khối lớn từ các bậc dinh dưỡng thấp hơn, chẳng hạn như mysid, có thể cung cấp một thành phần mới tiềm năng tương đối chưa được khai thác để hỗ trợ nhu cầu của ngành nuôi trồng thủy sản đang phát triển. Mysid có giá trị nhiệt cao và được coi là sinh vật thử nghiệm tuyệt vời cho nhiều xét nghiệm sinh học khác nhau do có nhiều và dễ nuôi cấy. Loài động vật phù du này có nhiều trong môi trường nước và được ghi nhận là có chu kỳ sinh sản ngắn. Các loài mysid đang được tận dụng và việc sử dụng chúng làm thức ăn có thể rất quan trọng đối với ngành nuôi trồng thủy sản. Mysid được đặc trưng bởi hàm lượng protein cao (52–75% chất khô) và một lượng đáng kể tổng lipid và axit béo.
Ngoài chất lượng dinh dưỡng cao, mysid còn thích hợp cho nuôi trồng thủy sản như một loại thức ăn sống. Mặc dù thông tin về giá trị dinh dưỡng và thử nghiệm sinh học của mysid chưa được ghi chép đầy đủ so với việc thay thế bột cá trong khẩu phần ăn của tôm, mysid được coi là một loại thức ăn sống thay thế cho việc nuôi cá biển. Và việc sử dụng các loại thức ăn có nguồn gốc từ động vật phù du như một chất thay thế tiềm năng cho bột cá trong khẩu phần ăn của tôm thẻ chân trắng có thể là một giải pháp thay thế đầy hứa hẹn. Dựa trên các bài đánh giá chuyên sâu của chúng tôi, không có nghiên cứu nào được công bố về giá trị thức ăn của bột mysid (MM) như một chất thay thế bột cá trong khẩu phần ăn của tôm.
Bài viết này – tóm tắt từ ấn phẩm gốc (Traifalgar, RFM et al. 2024. Bột mysid như một chất thay thế khẩu phần ăn cho bột cá trong khẩu phần ăn của tôm thẻ chân trắng Penaeus vannamei (Boone, 1931) hậu ấu trùng. Front. Sustain. Food Syst., 02 tháng 4 năm 2024, Sec. Aquatic Foods, Tập 8 – 2024) – báo cáo về một nghiên cứu nhằm đánh giá giá trị thức ăn của bột mysid như một thành phần thay thế cho bột cá đối với sự tăng trưởng, tỷ lệ sống, sử dụng thức ăn, thành phần sinh hóa, chỉ số tích lũy chất dinh dưỡng và tỷ lệ sống của hậu ấu trùng tôm thẻ chân trắng P. vannamei.
Thiết lập nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành trong hệ thống nước tuần hoàn trong nhà tại Khu phức hợp trại giống đa loài của Đại học Philippines Visayas (UP Visayas), Cao đẳng Khoa học Thủy sản và Đại dương (CFOS)—Viện Nuôi trồng Thủy sản (IA) tại Miag-ao, Iloilo, Philippines. Hệ thống thử nghiệm bao gồm 20 bể nhựa 60 lít được thiết kế hoàn toàn ngẫu nhiên trong thời gian nuôi 60 ngày.
Mysid hoang dã được mua từ ngư dân địa phương ở Atabayan, Tigbauan, Iloilo, Philippines và chế biến thành bột để đưa vào khẩu phần ăn thử nghiệm. 5 khẩu phần ăn thử nghiệm (37 % protein thô) được xây dựng với các sửa đổi để đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng của tôm hậu ấu trùng. Các nghiệm thức bao gồm 5 khẩu phần ăn thử nghiệm với đối chứng 0% (MM0), 25% (MM25), 50% (MM50), 75% (MM75) và 100 % (MM100) thay thế bột cá mysid theo trọng lượng.
Để biết thông tin chi tiết về thiết kế thí nghiệm và hệ thống nuôi cấy; chăn nuôi; thu thập và phân tích dữ liệu, hãy tham khảo ấn phẩm gốc.
Kết quả và thảo luận
Nghiên cứu này là nghiên cứu đầu tiên ghi nhận việc sử dụng dinh dưỡng của bột mysid (MM) như một nguồn protein chất lượng trong khẩu phần ăn của tôm thẻ chân trắng P. vannamei dựa trên một số chỉ số hiệu suất sinh học và các thông số sinh hóa. Phân tích axit amin (AA) của bột mysid cho thấy hàm lượng AA hoàn chỉnh và cân bằng tốt với giá trị dinh dưỡng gần giống hoặc vượt trội hơn thành phần AA của protein cơ của tôm thẻ chân trắng P. vannamei. Hơn nữa, thành phần axit amin thiết yếu (EAA) của MM đáp ứng nhu cầu EAA lý tưởng trong khẩu phần ăn của tôm He. Hầu hết hàm lượng EAA của bột mysid đều có điểm hóa học cao hơn, gần hoặc trên 100 %. Điều này chỉ ra rằng các AA có trong bột mysid này đủ để đáp ứng nhu cầu EAA của tôm thẻ chân trắng P. vannamei để tăng trưởng và phát triển tối ưu.
Dựa trên chỉ số điểm hóa học (CSI), AA hạn chế nhất của bột mysid là leucine (38,33 %) tiếp theo là arginine (39,58 %), cho thấy bột mysid chỉ có thể cung cấp những tỷ lệ phần trăm này trong tổng số nhu cầu của P. vannamei và sự khác biệt phải được bổ sung trong khẩu phần ăn. Việc bổ sung leucine tự nhiên hoặc tổng hợp vào khẩu phần ăn sẽ đảm bảo rằng sự tăng trưởng sẽ ở mức tối ưu và sẽ không bị hạn chế do thiếu hụt axit amin thiết yếu này.
Nhìn chung, bột mysid là loại protein chất lượng tốt có thể cung cấp đủ EAA để đáp ứng nhu cầu của tôm thẻ chân trắng P. vannamei nhằm đạt được sự tăng trưởng tối ưu.
Hình 1: Mối quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng riêng (SGR, % mỗi ngày) và mức thay thế bột cá trong khẩu phần ăn bằng bột mysid sau thử nghiệm cho ăn 60 ngày đối với tôm thẻ chân trắng Penaeus vannamei dựa trên phân tích hồi quy bậc hai. Mỗi điểm biểu thị giá trị trung bình của 4 nghiệm thức tôm lặp lại. Mức thay thế thu được bằng mô hình đa thức bậc hai (bậc hai) đối với SGR chỉ ra rằng mức tối ưu của bột mysid trong khẩu phần ăn là 65,50%.
Các chỉ số hiệu suất tăng trưởng về trọng lượng cơ thể cuối cùng (FBW), tỷ lệ tăng trọng (WG) và tốc độ tăng trưởng riêng (SGR); các thông số hiệu quả sử dụng thức ăn là tỷ lệ chuyển đổi thức ăn (FCR) và tỷ lệ hiệu quả protein (PER); và tỷ lệ sống của tôm thẻ chân trắng P. vannamei được cho ăn khẩu phần ăn dựa trên bột mysid tương tự nhau ở tất cả các nghiệm thứcc vào cuối thử nghiệm cho ăn. Tôm được cho ăn thay thế hoàn toàn bột cá (MM100) cho thấy hiệu suất tăng trưởng tương tự với nghiệm thức đối chứng (MM0), được cho ăn khẩu phần ăn dựa trên 100% bột cá. Tuy nhiên, tôm được cho ăn các mức tăng dần của các thành phần dựa trên bột mysid (MM25, MM50 và MM75) cho thấy xu hướng tương tự với nghiệm thức MM100 hướng đến hiệu suất tăng trưởng và sử dụng thức ăn tốt hơn. Những kết quả này cho thấy rằng bột mysid có thể thay thế tới 100% bột cá, có hàm lượng chiếm 40% trong nghiệm thức đối chứng dựa trên bột cá, mà không gây ra bất kỳ tác động bất lợi nào đến hiệu suất sinh học của tôm thẻ chân trắng P. vannamei. Đây là tài liệu về việc thay thế hoàn toàn bột cá bằng bột mysid trong khẩu phần ăn của tôm thẻ chân trắng.
Phân tích thành phần toàn thân của tôm thẻ chân trắng P. vannamei chỉ ra rằng hàm lượng protein, lipid, độ ẩm và tro trong thân thịt không bị ảnh hưởng bởi mức thay thế bột cá bằng bột mysid. Những phát hiện này cho thấy bột mysid cung cấp các chất dinh dưỡng cân bằng và dễ kiếm, đồng thời tăng trưởng nhanh không làm suy yếu thành phần của mô cơ. Tuy nhiên, trong nghiên cứu hiện tại, mức thay thế bột mysid trong khẩu phần ăn ảnh hưởng đáng kể đến khả năng giữ protein và lipid của cơ thể. Khả năng tích lũy protein và lipid trong các khẩu phần ăn có bổ sung bột mysid cao hơn đáng kể so với các nhóm được cho ăn khẩu phần ăn có bổ sung 100% bột cá. Khả năng giữ protein và lipid cao này cũng góp phần vào phản ứng tăng trưởng tốt hơn ở tôm được cho ăn MM75.
Tích lũy protein (PR) được coi là một chỉ số quan trọng cho việc cung cấp và sử dụng axit amin không tối ưu. Trong nghiên cứu này, các giá trị PR dao động trong khoảng từ 18,68 đến 22,70%, tương đối cao so với các giá trị được các nhà nghiên cứu khác báo cáo. Tích lũy protein gia tăng đáng kể do hàm lượng AA tốt hơn của bột mysid và sự cải thiện PR có thể liên quan đến sự gia tăng tổng hợp protein. Ở động vật giáp xác, PR thấp hơn có liên quan đến tỷ lệ dị hóa protein cao hơn, giảm thức ăn và sử dụng thức ăn không hiệu quả.
Nghiên cứu này cho thấy tỷ lệ sống tương đối cao và không có sự khác biệt đáng kể trong tất cả các khẩu phần ăn cho thấy rằng các động vật thí nghiệm khỏe mạnh và có tình trạng dinh dưỡng tốt, cho thấy bột mysid là một thành phần dinh dưỡng phù hợp để đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng của tôm thẻ chân trắng. Tăng trưởng của P. vannamei cũng tăng cao có thể là do thành phần dinh dưỡng chất lượng cao của bột mysid với hàm lượng protein thô cao tương đương với bột cá và hàm lượng AA thiết yếu. Giá trị dinh dưỡng của bột mysid như một sự thay thế hoàn toàn cho bột cá để hỗ trợ sự tăng trưởng và phát triển của P. vannamei được coi là chưa từng có. Kết quả của chúng tôi cho thấy rằng bột mysid có thể là một giải pháp thay thế khả thi cho bột cá trong khẩu phần ăn của P. vannamei và thành phần thức ăn này có thể giảm thiểu áp lực đánh bắt trữ lượng cá tự nhiên đang suy giảm để sử dụng làm thức ăn nuôi trồng thủy sản.
Kết luận
Nghiên cứu này kết luận rằng bột mysid có thể thay thế thành công tới 100% bột cá (40% trong thức ăn đối chứng) mà không có tác động có hại nào đến tỷ lệ sống, hiệu suất tăng trưởng, sử dụng thức ăn, thành phần sinh hóa và khả năng tích lũy chất dinh dưỡng của tôm. Bột mysid trong khẩu phần ăn cũng có thể tạo ra tác dụng thúc đẩy tăng trưởng nếu được sử dụng ở mức thay thế 65,50 % bột cá trong khẩu phần ăn hậu ấu trùng của tôm thẻ chân trắng P. vannamei.
Theo Rex Ferdinand M. Traifalgar
Biên dịch: Nguyễn Thị Quyên – Tôm Giống Gia Hoá Bình Minh
TÔM GIỐNG GIA HÓA – CHÌA KHÓA THÀNH CÔNG
Xem thêm:
- Phần 1: Hoạt động cân bằng: Cholesterol và phospholipid ảnh hưởng đến sự phát triển và chuyển hóa lipid của cua bùn Scylla paramamosain như thế nào
- Phần 2: Hoạt động cân bằng: Cholesterol và phospholipid ảnh hưởng đến sự phát triển và chuyển hóa lipid của cua bùn Scylla paramamosain như thế nào
- Sử Dụng Hỗn Hợp Các Phụ Phẩm Thực Vật (Jatropha curcas) Và Động Vật (Cá Ủ Chua) Làm Nguồn Protein Trong Khẩu Phần Ăn Của Tôm (Litopenaeus Vannamei)