Đây là thông tin hiển thị trên website, KHÔNG dùng để quét mã QR. Vui lòng liên hệ 1900 86 68 69 nếu link QR dẫn đến trang web này.
Đây là thông tin hiển thị trên website, KHÔNG dùng để quét mã QR. Vui lòng liên hệ 1900 86 68 69 nếu link QR dẫn đến trang web này.

Mùi bùn trong cá rô phi là nguyên nhân gây tổn thất đáng kể cho người sản xuất vì không thể bán được. Các giải pháp hiện tại bao gồm việc khử mùi hôi của cá trong bể nước sạch riêng biệt và sử dụng quy trình cho ăn đặc biệt. Việc sử dụng probiotic là một giải pháp dựa trên công trình nghiên cứu ở Philippines.

Tại Hoa Kỳ, các vấn đề về mùi hôi do tảo lam gây ra đã khiến ngành nuôi cá da trơn thiệt hại hàng triệu đô la mỗi năm (Fishsite, tháng 4 năm 2008). Mùi đất hoặc mùi bùn trong cá, tôm và động vật có vỏ chủ yếu là do hai chất terpen: geosmin và 2-methylisoborneol (MIB). Geosmin (trans-1, 10-dimethyl-trans-9-decalol) có mùi bùn đất và MIB (1, 2, 7, 7-tetramethyl-exo-bicyclo-heptaan-2-ol) gây mùi mốc. Những hợp chất này là vấn đề không chỉ đối với nuôi trồng thủy sản mà còn đối với ngành công nghiệp thực phẩm, đồ uống và nước uống. Khứu giác của con người có thể phát hiện ra chúng (tức là chúng ta có thể ngửi thấy chúng) ở nồng độ rất thấp từ 4-15 ng/lít. Chúng tích tụ trong lipid của cá và có thể gây độc, ví dụ như geosmin độc đối với cá hồi ở mức 0,45 mg/lít và MIB ở mức 10 mg/lít.

  • Hầu hết các sinh vật sản sinh ra các hợp chất này là các loài vi khuẩn lam thuộc chi Anabaena, Oscillatoria, Phormidium, Lyngbya, Leptolyngbya, Microcoleus, Nostoc, Planktothrix, Pseudanabaena, HyellaSynechococcus.
  • Các loài xạ khuẩn thuộc chi Streptomyces, NocardiaMicrobispora.
  • Các vi sinh vật khác bao gồm một số loại nấm đất, ví dụ: PenicilliumAspergillus, vi khuẩn chuyển động trượt (gliding bacteria) và vi khuẩn myxobacteria Nannocystis exedens.

Một số vi sinh vật bài tiết geosmin hoặc MIB vào môi trường, trong khi những vi sinh vật khác giữ lại hầu hết trong tế bào. Phần lớn các vi sinh vật này là sinh vật đáy hoặc vi sinh vật bám quanh. Do đó, các loài cá sẽ ăn phải các vi sinh vật có geosmin và MIB khi chúng ăn mảnh vụn ăn các vi sinh vật sống ở đáy, vi khuẩn đáy hoặc chất hữu cơ phân hủy.

Vấn đề ở cá rô phi nước ngọt

Các vấn đề về mùi hôi thường xảy ra ở cá rô phi nước ngọt, nuôi trong ao hoặc trong hệ thống tuần hoàn. Trong một bài báo gần đây, Guttman và van Rijn (2008) đã báo cáo các điều kiện hiếu khí, giàu chất hữu cơ phổ biến trong hệ thống tuần hoàn nuôi cá rô phi kích thích sự phát triển của xạ khuẩn và sau đó sản xuất geosmin và MIB.

Đối với các sản phẩm cá rô phi dành cho thị trường trong nước hoặc quốc tế có giá trị cao, việc kiểm soát mùi hôi là điều kiện tiên quyết cho việc bán hàng. Hầu hết các trang trại lớn hiện nay đã tích hợp một giai đoạn làm sạch giữa quá trình thu hoạch và chế biến. Việc loại bỏ mùi hôi của cá theo cách như vậy có thể làm giảm 4% trọng lượng. Điều này có thể làm tăng thêm một lượng chi phí đáng kể cho người nuôi. Ngoài ra, quy trình này còn giúp giảm đáng kể mùi hôi của cá, và giảm lượng chất thải cá bài tiết vào nước trong quá trình vận chuyển và tránh ô nhiễm sản phẩm do chất thải cá. Tuy nhiên, các giải pháp như vậy làm tăng đáng kể chi phí sản xuất, tốn nhiều thời gian và công sức.

Quản lý vi sinh vật

Các chủng Bacillus cụ thể, được chọn lọc nhờ khả năng ức chế trực tiếp vi khuẩn gây bệnh, tạo ra exoenzyme để cải thiện quá trình tiêu hóa, phân hủy các chất thải và phát triển trong nhiều điều kiện pH, nhiệt độ, và độ mặn khác nhau. Những yếu tố này có thể giúp giảm bớt vấn đề liên quan đến mùi hôi ở cá rô phi thông qua:

  • Cạnh tranh loại trừ vi khuẩn lam thông qua việc cạnh tranh các chất dinh dưỡng vô cơ nitơ và phốt pho. Điều này sẽ làm giảm mật độ quần thể vi khuẩn lam và/hoặc thành phần vi sinh vật khác. Dữ liệu mở rộng từ thực tế trên toàn thế giới đã chỉ ra rằng probiotic giúp kiểm soát tảo lam trong ao nuôi tôm rất tốt.
  • Loại trừ cạnh tranh xạ khuẩn hoặc các vi khuẩn khác và nấm tạo ra geosmin, MIB và các hợp chất terpenoid khác.
  • Phân hủy nhanh tảo chết, phân và thức ăn thừa, loại bỏ nguồn dinh dưỡng hữu cơ cho xạ khuẩn, v.v.
  • Ức chế trực tiếp sự phát triển của vi khuẩn và nấm sinh terpenoid. Đặc biệt, các chủng trong PRO-F đã được chọn để ức chế trực tiếp nhiều loại vi khuẩn gây bệnh và tác dụng ức chế tương tự cũng có thể có hiệu quả đối với xạ khuẩn.
  • Loại bỏ vi khuẩn sinh terpenoid ra khỏi đường ruột cá.
  • Phân hủy geosmin và MIB trong nước, trầm tích, cấu trúc lồng và đường ruột cá.

Ứng dụng thực tế

Lợi ích của việc quản lý vi sinh vật thích hợp đã được chứng minh gần đây tại Ruby Aquaculture Philippines Incorporated, một trại giống cá rô phi dòng GIFT (Cá rô phi thuộc dự án cải tiến di truyền) có công suất 6-7 triệu con/năm nằm trên khu đất rộng 25 ha ở Angat, Bulacan, Philippines. Teofilo Rivera, một trong những tác giả của bài viết đã thiết kế một hệ thống sử dụng nước thải từ trại giống trong ao nuôi thương phẩm. Những nơi này lần lượt được thả cá rô phi giống chưa bán được. Mật độ thả giống thay đổi tùy theo chất lượng cá bột và nhu cầu của thị trường nhưng thường dao động từ 3-5 con/m2. Tương tự, việc thay nước cho các ao nuôi thương phẩm (10 ao có diện tích 4.400 m2 và 7 ao có diện tích 4.900 m2) phụ thuộc vào các điều kiện phổ biến ở trại giống.

Cá ở các trại nuôi thương phẩm thường hôi mùi bùn nên trang trại đã thực hiện một số biện pháp để giảm thiểu mùi hôi khó chịu này trước khi bán cá. Những biện pháp này bao gồm việc cho cá ăn bánh mì, đây không chỉ là một quy trình tốn thời gian và tốn kém mà còn gây ra nhiều vấn đề về hậu cần.

Trong quản lý vi sinh vật, trang trại đã áp dụng một loạt probiotic Sanolife như PRO-W (ở nồng độ 5×1010 cfu/g) với liều lượng 10g/tấn nước/tuần trong nước ao nuôi thương phẩm. Một sản phẩm khác là PRO-F có nồng độ 1×1010 cfu/g, được phủ lên trên thức ăn với tỷ lệ 2g/kg cho mỗi lần cho ăn, cho ra nồng độ cuối cùng là 2 x107 cfu/g thức ăn.

Các thử nghiệm về hương vị được thực hiện hàng tuần và báo cáo cho thấy mùi bùn trong cá đã giảm đáng kể vào tuần thứ ba. Trong thời gian này, người ta cũng quyết định áo PRO-W vào thức ăn với liều lượng 2g/kg thức ăn ba lần một ngày. Điều này làm tăng nồng độ bào tử Bacillus trong thức ăn lên 1×108 cfu/g. Hai ngày sau khi áp dụng, tức là vào ngày thứ 23 của đợt điều trị, cá được thu hoạch và bán ra mà không có mùi hôi. Theo Jaime Quito, cá hoạt động tích cực hơn và có hình dạng đẹp hơn như vảy sạch hơn và sáng bóng hơn khi bổ sung probiotic vào nước.

Kết luận

Việc áp dụng hai loại probiotic Bacillus này đã được chứng minh là có thể loại bỏ mùi hôi ở cá rô phi có kích thước thương phẩm. Quy trình này rất dễ sử dụng và không yêu cầu chuyển cá sang các ao hoặc bể riêng biệt. Trong tương lai, chúng tôi kỳ vọng rằng khi sản phẩm được sử dụng cho cả vụ mùa, vấn đề về mùi hôi sẽ không còn là trở ngại nữa. Hơn nữa, chúng tôi kỳ vọng rằng cá sẽ tăng trưởng nhanh hơn, với FCR thấp hơn, như những gì người nuôi cá rô phi ở Thái Lan và những người nuôi cá khác ở khu vực Châu Á Thái Bình Dương đã đạt được (Decamp và cộng sự, 2008 & 2007).

Teofilo Rivera, chủ sở hữu Ruby Aquaculture Philippines Incorporated (bên phải) và ông Denny Chavez (bên trái), trước hệ thống bể hình lục giác

Hình ảnh lưới Hapas trong bể được sử dụng để ương và nuôi thương phẩm.

Theo Denny Chavez, Teofilo Rivera, Jaime Quinto, David Moriarty và d Olivier Decamp

Nguồn: https://aquaasiapac.com/issue/jan-feb-2009/

Biên dịch: Huyền Thoại – Tôm Giống Gia Hóa Bình Minh

TÔM GIỐNG GIA HÓA – CHÌA KHÓA THÀNH CÔNG

Xem thêm:

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

You cannot copy content of this page