Tóm tắt
Axit béo omega-3 (axit Alpha-linolenic) và axit béo omega-6 (axit Linoleic) là một nhóm các axit béo thiết yếu mà cơ thể không thể tự tổng hợp được mà phải được cung cấp từ chế độ ăn uống. Một trong những nguồn axit béo thiết yếu có nguồn gốc từ dầu cá. Nghiên cứu này nhằm mục đích xác định ảnh hưởng của Dầu cá thô (CFO) trong thức ăn đến hàm lượng EPA và DHA trong thịt tôm he. Phương pháp nghiên cứu được sử dụng là thiết kế hoàn toàn ngẫu nhiên. Các phương pháp xử lý được sử dụng là hàm lượng Dầu cá thô (CFO) khác nhau, là P0 (0%), P1 (2%), P2 (4%), P3 (6%) và P4 (8%). Kết quả nghiên cứu cho thấy sự khác biệt đáng kể (p < 0,05) về hàm lượng EPA và DHA trong thịt tôm he. Hàm lượng EPA và DHA cao nhất được tìm thấy ở nghiệm thức P4 (8%) và thấp nhất ở nghiệm thức P0 (0%). Việc sử dụng CFO trong thức ăn tôm he cần được nghiên cứu sâu hơn liên quan đến sự phát triển của tôm và chu kỳ sinh sản của tôm để tăng năng suất tôm he. CFO trong thức ăn nên được sử dụng ở liều 6%.
Giới thiệu
Ngành thủy sản Indonesia có tiềm năng to lớn trong việc đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng cho người dân. Tôm là một nguồn dinh dưỡng quan trọng được cung cấp bởi ngành thủy sản. Theo Oksuz và cộng sự (2009), tôm chứa axit béo không bão hòa omega-3 và omega-6.
Axit béo omega-3 (axit Alphalinolenic) và axit béo omega-6 (axit Linoleic) được xếp vào nhóm axit béo thiết yếu cùng với axit arachidonic. Axit béo thiết yếu là những axit béo mà cơ thể không thể tự tổng hợp được mà phải lấy từ thực phẩm tiêu thụ (Williams, 1999).
Axit béo omega-3, bao gồm EPA (axit Eicosapentaenoic) và DHA (axit Docosahexaenoic), rất có lợi cho sức khỏe con người (Swanson và cộng sự, 2012). Ngoài ra, chúng còn có lợi cho bản thân tôm, cụ thể là cho sự sinh trưởng và phát triển của tôm (Elovaara, 2001).
Một nguồn omega-3 có nguồn gốc từ dầu cá. Dầu cá khác với các loại dầu khác vì dầu cá chứa nhiều loại axit béo. Dầu cá có nguồn gốc từ cá biển là nguồn cung cấp axit béo không bão hòa đa (PUFA), đặc biệt là axit béo omega-3 chuỗi dài (EFSA, 2010).
Hàm lượng axit béo omega-3 cao trong tôm được cho là có nguồn gốc từ thức ăn tự nhiên. Ngoài thức ăn, một số yếu tố khác như loài, tuổi, mùa và môi trường sống cũng ảnh hưởng đến axit béo omega-3 (Patawi, 1996). Nghiên cứu về việc sử dụng thức ăn nhân tạo bổ sung dầu cá thô làm nguồn cung cấp axit béo EPA và DHA cho đến nay vẫn chưa được thực hiện trên tôm thẻ chân trắng (Pramana và cộng sự, 2019; Agustono và cộng sự, 2019). Hàm lượng axit béo EPA và DHA cao trong dầu cá thô được cho là sẽ làm tăng hàm lượng EPA và DHA trong thịt tôm thẻ chân trắng.
Phương pháp nghiên cứu
Địa điểm và thời gian nghiên cứu
Nghiên cứu này được thực hiện tại Phòng thí nghiệm của Khoa Thủy sản và Hàng hải, Đại học Airlangga. Phân tích EPA và DHA được thực hiện tại Phòng thí nghiệm Hóa học của Đại học Muhammadiyah Malang. Vật liệu nghiên cứu Nguyên liệu được sử dụng trong nghiên cứu này là tôm thẻ chân trắng có trọng lượng ± 5 gram, dầu cá thô, bột cá, cám gạo, bột đậu nành, bột sắn, bột ngô, premix, nước ngọt và nước biển. Các thiết bị nghiên cứu được sử dụng là bể cá, máy sục khí, nhiệt kế, bộ kiểm tra DO, bộ kiểm tra pH, bộ kiểm tra amoniac, khúc xạ kế và sắc ký khí.
Thiết kế nghiên cứu
Thiết kế thử nghiệm được sử dụng trong nghiên cứu này là thiết kế hoàn toàn ngẫu nhiên (CRD) với Dầu cá thô làm nghiệm thức. Bao gồm 5 nghiệm thức và 4 lần lặp lại là P0 (0%), P1 (2%), P2 (4%), P3 (6%) và P4 (8%). Việc xử lý thử nghiệm được thực hiện trong 21 ngày trong bể cá với mật độ 10 con/bể và thức ăn cho ăn là 4% tổng trọng lượng sinh khối.
Phân tích EPA và DHA
Các phân tích EPA và DHA được thực hiện bằng phương pháp sắc ký khí (GC) được thực hiện tại Phòng thí nghiệm Hóa học của Đại học Muhammadiyah Malang.
Đầu tiên, mẫu được chuẩn bị, sau đó cân 1 – 10 g tùy theo thành phần axit béo giả định. Nếu nó ở dạng rắn thì làm tan chảy nó bằng cách đun nóng. Một dung dịch bao gồm 17,5 ml dietyl ete, 17,5 ete dầu hỏa, 6,5 ml etanol 95% được thêm vào và tất cả mọi thứ sau đó được chuyển vào phễu tách.
Thêm 12,5 ml dung dịch Na2CO3 1% vào phễu tách chứa mẫu và dung dịch, trộn trong 30 giây cho đến khi đồng nhất. Mẫu được để yên cho đến khi hai chất lỏng tách ra (nước ở dưới cùng và dung môi ete ở trên cùng). Phần chất lỏng phía dưới được tách và thu gom, phần ete còn lại được rửa lại bằng 1,5 ml etanol 95% và 7,5 ml dung dịch Na2CO3 1%. Trộn và để nó nghỉ. Tách phần đáy và kết hợp lại với nước thu được.
Phần còn lại của ete được rửa lại bằng 6,5 ml nước. Một lần nữa tách nước và trộn với nước đã thu được. Sau khi làm bay hơi hết dung môi, lượng dầu còn lại ở dạng triglycerid được sử dụng để phân tích tiếp.
Muối axit béo thu được trong nước (từ 4 lần thu) được giải phóng bằng cách thêm 1,5 ml H2SO4 10%. Trộn cho đến khi phân bố đều trong phễu chiết rồi thêm 12,5 ml diethyl ete: hỗn hợp ete dầu mỏ = 1:1. Trộn và để yên cho đến khi hai chất lỏng tách ra.
Phần ether (trên cùng) được tách ra và thu thập. Phần nước còn lại được rửa lại bằng hỗn hợp dung môi tối đa ba lần và thu được dung dịch ete thu được. Cho 1 g Na2SO4 vào dung dịch ete để liên kết phần nước còn lại.
Dịch ete được lọc qua giấy lọc, rửa bằng hỗn hợp ete để rửa sạch axit béo bám vào bình chứa và giấy lọc. Dịch lọc thu được được làm khô bằng khí N2. Sau khi tất cả ete bay hơi hết, nó có thể được lưu trữ để phân tích axit béo bằng phương pháp GC.
Quá trình este hóa mẫu axit béo
Để các axit béo tự do bay hơi dễ dàng hơn nên thích hợp cho việc phân tách bằng GC thì cần phải este hóa các axit béo thành este của chúng. Thêm 2 ml dung dịch diazomethane vào mẫu axit béo tự do trong ống nghiệm. Để tăng tốc độ phản ứng, thêm 2-5 ml metanol 10% trong dietyl ete. Nếu đủ diazomethane, màu vàng sẽ không biến mất sau khi xuất hiện bọt khí khi dừng phản ứng (trong vòng 15 phút ở nhiệt độ phòng). Sau khi bọt khí ngừng hình thành, làm khô dung môi diazomethane và ether dư bằng khí N2. Thêm dung môi dietyl ete vào một thể tích đã biết (ví dụ 10 ml) để thu được dung dịch este của axit béo có nồng độ nhất định. Dung dịch đã sẵn sàng để được bơm vào GC.
Thành phần nguồn thức ăn
Thành phần giá trị được tính toán trong thức ăn được hiển thị trong Bảng 1 sau. Năng lượng tiêu hóa (DE) được tính toán thu được bằng cách trừ tổng năng lượng và giá trị thu được là 3292,07 Kkal/kg.
Bảng 1. Tính toán thành phần thức ăn.
Phân tích dữ liệu
Dữ liệu thu được từ thí nghiệm được phân tích bằng phân tích mô tả. Sau khi có kết quả, dữ liệu được trình bày dưới dạng bảng.
Kết quả và thảo luận
Hàm lượng EPA và DHA
Kết quả tính toán hàm lượng EPA và DHA trong tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei) cho thấy có sự khác biệt về hàm lượng EPA và DHA. Hàm lượng EPA và DHA trung bình của tôm chân trắng có thể được xem trong Bảng 2.
Bảng 2. Độ lệch trung bình và tiêu chuẩn của EPA và DHA trong thịt tôm thẻ chân trắng.
Lưu ý: Các chữ viết trên cùng một cột khác nhau thể hiện sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05).
Kết quả phân tích phương sai (ANOVA) đối với EPA cho thấy sự khác biệt đáng kể (p<0,05). Thử nghiệm Duncan Multiple Range cũng cho thấy sự khác biệt đáng kể giữa các nghiệm thức. Các nghiệm thức P0, P1, P2 và P4 khác nhau giữa các nghiệm thức, nhưng ở nghiệm thức P3 không khác biệt với nghiệm thức P2 và P4. Hàm lượng EPA cao nhất thu được ở nghiệm thức P4 nhưng không khác biệt đáng kể so với nghiệm thức P3.
Kết quả ANOVA về DHA cho thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Thử nghiệm đa phạm vi của Duncan cho thấy sự khác biệt đáng kể. Nghiệm thức P0, P1, P2 và P4 khác nhau giữa các nghiệm thức, nhưng ở nghiệm thức P3 không khác biệt so với nghiệm thức P2 và P4. Hàm lượng DHA cao nhất thu được ở nghiệm thức P4 nhưng không khác biệt đáng kể so với nghiệm thức P3.
Sự gia tăng hàm lượng EPA và DHA trong thịt tôm thẻ chân trắng bị ảnh hưởng bởi hàm lượng Dầu cá thô trong công thức thức ăn. Điều này tuân theo tuyên bố của Patawi (1996) rằng thành phần thịt tôm thay đổi rất nhiều tùy thuộc vào thức ăn của tôm, bên cạnh ảnh hưởng của loài, tuổi, mùa và môi trường sống.
Hàm lượng EPA và DHA trong thịt tôm thẻ chân trắng tăng khi hàm lượng EPA và DHA trong thức ăn tăng. Chất lượng của EPA và DHA trong thức ăn có thể thay đổi do quá trình chế biến, bảo quản và vận chuyển. Nguồn chính của EPA và DHA là các vi sinh vật biển như Chlorella, Diatom và Dinoflagellate. Dầu cá thô (CFO) là nguồn cung cấp EPA và DHA trong nghiên cứu này. Cùng loại thức ăn được cung cấp không thể đảm bảo hàm lượng và chất lượng axit béo giống nhau mà tôm tiêu thụ. Lý do là vì các axit béo, đặc biệt là axit béo không no, dễ bị oxy hóa. Quá trình chế biến, bảo quản và vận chuyển thức ăn có thể thay đổi thành phần và chất lượng của axit béo.
Cá, tôm và động vật có vỏ không tự tổng hợp được EPA và DHA. Chúng lấy EPA và DHA từ các vi sinh vật biển mà chúng ăn. Các vi sinh vật biển này, bao gồm Chlorella, Diatom và Dinoflagellate, là nhà sản xuất chính của axit béo omega-3. Các họ tảo có chứa axit béo omega-3 cao bao gồm Chlorella minuttisima, Euglena gracilis và Hitchia Clotrium, chiếm khoảng 20-40% tổng hàm lượng axit béo (Patawi, 1996). Trong nghiên cứu này, nguồn axit béo omega-3 EPA và DHA được cung cấp qua thức ăn cho tôm là CFO, trong đó hàm lượng EPA trong CFO là 10,7173% và DHA là 7,0108% do đó nếu công thức thức ăn chứa dầu cá thô được tiêu thụ bởi tôm, các axit béo omega-3 EPA và DHA sẽ được tôm hấp thụ.
Trong cơ thể tôm, quá trình chuyển hóa chất béo diễn ra ở gan tụy (Ceccaldi, 1989). EPA và DHA được lưu trữ trong phospholipid và triacylglycerol (Halver, 1989). Phospholipid chứa nhiều PUFA hơn triacylglycerol. Phospholipid của cá chứa hàm lượng omega-3 và omega-6 cao. Axit béo omega-3 có nhiều trong thịt tôm có thể làm giảm cholesterol trong máu. Axit béo omega-3 có thể ức chế quá trình tổng hợp Lipoprotein mật độ rất thấp (VLDL) do đó việc sản xuất Lipoprotein mật độ thấp (LDL) bị giảm. Nồng độ VLDL và LDL cao có thể gây tích tụ cholesterol trong máu (Patawi, 1996).
Bản thân tôm có khả năng hạn chế kéo dài và khử bão hòa axit linolenic thành EPA và DHA (Felix và Velazquez, 2002) nên có thể nói khả năng tổng hợp EPA và DHA ở tôm thấp. Do đó, EPA và DHA là các axit béo thiết yếu cho tôm vì chúng quan trọng để duy trì chức năng tế bào (Halver, 1989), vì vậy tôm phải được cung cấp axit béo EPA và DHA từ thực phẩm chúng tiêu thụ.
Chất lượng nước trung bình trong quá trình nghiên cứu được trình bày trong Bảng 3 sau đây.
Bảng 3. Chất lượng nước trung bình.
Trong quá trình nghiên cứu, nhiệt độ nước trong bể nuôi dao động từ 27-29°C. Điều này tuân theo tuyên bố của Wyban và Sweeney (1991), rằng nhiệt độ nước thích hợp để duy trì tôm thẻ chân trắng nằm trong khoảng từ 23-30°C, trong khi đó theo Elovaara (2001) nhiệt độ nước tối ưu cho sự phát triển của tôm chân trắng là 28,5°C. Trong quá trình nghiên cứu, Do bể cá được đóng kín bằng bạt nhựa, nhiệt độ nước tương đối ổn định. Việc kiểm soát nhiệt độ là rất quan trọng trong nuôi tôm vì nó ảnh hưởng đến trao đổi chất, tăng trưởng và tỷ lệ sống của tôm (Gunarto và Hendrajat, 2008).
Kết luận
Việc bổ sung dầu cá thô vào công thức thức ăn cho tôm thẻ chân trắng có thể làm tăng hàm lượng EPA và DHA trong thịt tôm chân trắng. Sự gia tăng tối ưu EPA và DHA đạt được từ việc bổ sung 6% dầu cá thô.
Theo Januar Hadi Prasetyo, Agustono và Widya Paramitha Lokapirnasari
Biên dịch: Nguyễn Thị Quyên – Tôm Giống Gia Hóa Bình Minh
TÔM GIỐNG GIA HÓA – CHÌA KHÓA THÀNH CÔNG
Xem thêm:
- Ảnh Hưởng Của Oxy Hòa Tan Siêu Bão Hòa Đến Sự Biểu Hiện Gen Liên Quan Đến Tăng Trưởng, Tỷ Lệ Sống Và Miễn Dịch Của Tôm Thẻ Chân Trắng (Litopenaeus vannamei)
- Lợi Ích Của Axit Tartaric Trong Khẩu Phần Ăn Đối Với Sự Tăng Trưởng, Dinh Dưỡng Và Đáp Ứng Miễn Dịch Của Tôm Thẻ Chân Trắng
- Ảnh Hưởng Của Việc Sử Dụng Chế Phẩm Sinh Học (Sanolife PRO-W) Đến Hiệu Suất Tăng Trưởng Của Hệ Động Vật Meiofauna Và Cá Rô Phi Trong Ao Đất