Các yếu tố khởi phát và đồng nhiễm, triệu chứng và các biện pháp phòng chống Vibrio spp cơ hội và phổ biến.
Vibriosis là một bệnh do vi khuẩn Vibrio spp. gây ra. Những vi khuẩn này tạo thành một phần của hệ vi sinh vật tự nhiên ở tôm tự nhiên, tôm nuôi và môi trường biển. Nhiễm Vibrio đã gây ra một hạn chế lớn đối với sản xuất và kinh doanh tôm. Chúng là nguyên nhân gây ra một số bệnh với tỷ lệ chết có thể lên đến 100% và gây thiệt hại mùa vụ trên toàn cầu. Các bệnh liên quan đến Vibrio thường xảy ra ở các trại sản xuất giống, nhưng dịch bệnh ở vật nuôi cũng thường xảy ra ở các ao nuôi thương phẩm.
Chủng gây bệnh
Các loài Vibrio như Vibrio harveyi và Vibrio parahaemolyticus đã được xác định là mầm bệnh chính trong nuôi tôm. Ngoài ra, các loài Vibrio khác như Vibrio vulnificus, Vibrio anguillarum, Vibrio campbellii và Vibrio splendidus cũng có liên quan đến bệnh ở tôm và gây ra dịch bệnh lớn.
Phân lập
Thiosulfate-citrate-bile salts-sucrose agar (thạch TCBS), là một loại đĩa nuôi cấy thạch chọn lọc được sử dụng trong các phòng thí nghiệm vi sinh để phân lập các loài Vibrio. Thạch TCBS có tính chọn lọc cao để phân lập các loài Vibrio và dễ sử dụng trong phòng thí nghiệm tại trang trại. Hơn nữa, nông dân có thể phân biệt các loài Vibrio, tùy thuộc vào màu sắc của khuẩn lạc: xanh lục và vàng. Ngoài ra, việc sử dụng thạch tạo màu cũng được đề xuất định lượng V. parahaemolyticus.
Bệnh liên quan đến Vibrio spp. ở tôm
Vibrio có thể tồn tại trong môi trường mà không gây bệnh, nhưng rất dễ chuyển từ trạng thái cơ hội và cộng sinh sang gây bệnh khi điều kiện thay đổi. Do đó, khả năng gây bệnh hoặc tăng độc lực của nó là một quá trình phức tạp bị ảnh hưởng bởi nhiều biến số, bao gồm vật chủ, loài/chủng Vibrio, giai đoạn phát triển, điều kiện sinh lý, áp lực môi trường và phương pháp lây nhiễm.
Có nhiều bệnh liên quan đến Vibrios. Trong đó, V. harveyi là một trong những tác nhân chính gây bệnh phát sáng và gây chết hàng loạt trong các hệ thống nuôi ấu trùng tôm he. V. parahaemolyticus là nguyên nhân gây bùng phát hội chứng tôm chết sớm (EMS) hoặc bệnh hoại tử gan tụy cấp tính (AHPND). Đối với bệnh phân trắng (WFD), Vibrio spp. đã được phân lập từ những con tôm bị nhiễm WFD và cảm nhiễm bằng các chủng Vibrio đã dẫn đến WFD giống hệt nhau ở các mẫu thực địa (Tran, 2019).
Hình 1. Phân trắng trên ao tôm (A) và (B).
Các dấu hiệu lâm sàng của nhiễm Vibrio bao gồm tôm lờ đờ, giảm ăn, gan tụy bị đổi màu và hoại tử với sự hiện diện của các cục, cơ thể đổi màu đỏ, vàng mang, xuất hiện các mảng trắng ở cơ bụng, melanin hóa, u hạt, hoại tử, viêm các cơ quan như (cơ quan lympho, mang, tim) và phát quang.
Yếu tố khởi phát và đồng nhiễm
Các đợt bùng phát dịch bệnh do Vibrios gây ra có thể xảy ra khi các yếu tố môi trường kích hoạt sự nhân lên nhanh chóng của vi khuẩn (vốn đã có mặt ở mức độ thấp). Vibrios trở thành mầm bệnh cơ hội khi cơ chế bảo vệ tự nhiên bị ức chế hoặc tiếp xúc với điều kiện căng thẳng.
Hình 2. Hoại tử trên sợi cơ gây ra bởi các khuẩn lạc V. parahaemolyticus (A) và L. vannamei với sự phát quang màu xanh lục ở đuôi (B) (Ảnh do Dariano Krummenauer cung cấp)
Vibrio spp. cũng liên quan đến nhiều tác nhân gây bệnh. Sự nhân lên nhanh chóng của Vibrios có thể được kích hoạt bởi bệnh nguyên phát. Phước và cộng sự (2009) đã báo cáo về sự nhân lên nhanh chóng của V. campbellii khi đồng nhiễm với virus gây bệnh đốm trắng (WSSV, Bảng 1).
Bảng 1. Định lượng tế bào nhiễm virus gây hội chứng đốm trắng (WSSV) và V. campbellii (VC) trong các cơ quan của tôm (giá trị trung bình ± SD), được thu thập sau 6 giờ tiêm V. campbellii (tôm trong điều kiện sắp chết). Phỏng theo Phước và cộng sự, 2009.
Ngưỡng Vibrio trong trang trại nuôi tôm
Có nhiều tiêu chuẩn ngưỡng tối đa của Vibrio trong các trang trại. Hầu hết chúng đều dành cho Vibrio spp. trong nước ao. Đây là những ngưỡng tối đa phổ biến được sử dụng trong các trang trại nuôi tôm:
- Tổng số Vibrio (TVC): thay đổi từ 103 – 104 CFU/mL. Một số nông dân chấp nhận TVC là 102 CFU/mL làm ngưỡng tối đa.
- Khuẩn lạc Vibrio: 102 CFU/mL đối với màu xanh lá cây và 103 CFU/mL đối với màu vàng.
- Tỷ lệ phần trăm Vibrio: 5% – 10% TVC trên tổng số đĩa và 10% khuẩn lạc xanh Vibrio của TVC.
Sự thay đổi ngưỡng phụ thuộc vào kinh nghiệm tại trang trại, vì các trang trại khác nhau có những thách thức và đặc điểm môi trường khác nhau.
Alfiansah và cộng sự (2018) đã báo cáo về Vibrio trong các ao nuôi tôm thâm canh không thay nước (Bảng 2). Dữ liệu được ghi lại trong nước ao 10 ngày một lần, từ ngày thứ 10 đến ngày thứ 70. Mức thấp nhất được tìm thấy vào ngày thứ 10 với 102 CFU/mL. Nồng độ Vibrio tăng lên 103 CFU/mL vào ngày 20, 30, 40 và 50. Vào ngày 60 và 70, nồng độ Vibrio là 104 CFU/mL.
Trong một thử nghiệm thực địa của Biomin năm 2019, Vibrio spp. trong nước của 5 ao được ghi lại hàng tuần. Mẫu ban đầu được lấy vào ngày 15 (15 ngày sau khi thả tôm) và kết thúc vào ngày thứ 104 (Hình 3). Trong thử nghiệm này, tổng số Vibrio (TVC) là 1,334 x 103 – 6,793 x 103 CFU/mL. Các khuẩn lạc màu xanh nằm trong khoảng từ 0 – 2,570 x 102 CFU/mL. So với tổng số đĩa (TPC), TVC dao động từ 0,98% đến 11,4%.
Bảng 2. TPPV (tổng Vibrio gây bệnh tiềm ẩn) trong ao nuôi thâm canh (Alfiansah và cộng sự, 2018)
Hình 3. Các khuẩn lạc màu xanh lá cây, khuẩn lạc màu vàng và TVC trung bình của Vibrio trong ao nuôi tôm bình thường.
Người nuôi tôm đã được khuyến cáo theo dõi quần thể Vibrio trong ruột và gan tụy của tôm. Một nghiên cứu được thực hiện bởi Rodriguez và cộng sự (2015) có thể được áp dụng như một hướng dẫn cho gan tụy. Trong nghiên cứu này, mật độ Vibrio được báo cáo trong giai đoạn bình thường, ban đầu và cấp tính đối với bệnh AHPND ở gan tụy lần lượt là 5,93 x 105 CFU/g, 1,78 x 106 CFU/g và 1,65 x 108 CFU/mL.
Trong ruột tôm, người ta thường tìm thấy quần thể Vibrio ở mức 106 CFU/g. Trong một thử nghiệm của Biomin, quần thể Vibrio trong ruột tôm được theo dõi 5 ngày một lần, từ ngày thứ 5 đến ngày 60. Mật độ quần thể Vibrio là 10 – 102 CFU/g vào ngày thứ 5 đến ngày 25. Từ ngày 30 đến 60, quần thể Vibrio tăng lên 103 – 104 CFU/g. Nông dân được khuyến khích sử dụng 105 CFU/g làm ngưỡng tối đa của Vibrio trong ruột tôm. Khi tỷ lệ này tăng lên 106 CFU/g, tôm sẽ gặp rủi ro.
Chiến lược quản lý phòng ngừa và kiểm soát dịch bệnh trên tôm
Vibrio rất khó tiêu diệt vì chúng thích nghi tốt với các điều kiện môi trường khác nhau và có thể ở trạng thái ngủ đông khi gặp điều kiện bất lợi. Quản lý ao nuôi và sức khỏe đường ruột khỏe nghiêm ngặt là những chiến lược quan trọng để kiểm soát Vibrio. Ngoài ra, cũng cần lấy mẫu thường xuyên để theo dõi mức độ của chúng trong hệ sinh thái đường ruột và ao nuôi tôm.
Có một số chiến lược để ngăn ngừa các bệnh do Vibrio gây ra: kiểm soát quần thể Vibrio và giảm thiểu tác động của bệnh. Việc sử dụng kháng sinh để kiểm soát bệnh do Vibrio gây ra đã dẫn đến tình trạng kháng thuốc và hạn chế thương mại trên thị trường xuất khẩu, do đó, ngành nuôi tôm đã tiếp tục tìm kiếm các phương pháp hiệu quả và thân thiện với môi trường hơn trong việc kiểm soát Vibrio, như an toàn sinh học; khử trùng, sử dụng kháng sinh tự nhiên và probiotics.
Có một số chiến lược để giảm thiểu dịch bệnh như cải thiện sức khỏe hoặc hệ thống miễn dịch của tôm, quorum quenching, loại bỏ độc tố do Vibrio bài tiết và áp dụng hệ thống an toàn sinh học hoàn chỉnh. Tuy nhiên, trong bài viết này, chúng tôi sẽ chỉ thảo luận về chiến lược đầu tiên, tức là làm thế nào để kiểm soát mức độ Vibrio.
An toàn sinh học và khử trùng
Khử trùng, lọc và vệ sinh là những ví dụ về thực hành an toàn sinh học. Thuốc khử trùng có thể được sử dụng để xử lý nước đầu vào trong trại giống và giai đoạn nuôi thương phẩm. Clo, thuốc tím, hydro peroxide, benzalkonium chloride, kali monopersulfate, ozone và UV là những chất khử trùng phổ biến trong nuôi tôm. Mỗi chất trong số này có những đặc điểm khác nhau.
Clo là chất khử trùng phổ biến nhất được sử dụng trong nuôi tôm. Hiệu quả của clo bị ảnh hưởng bởi pH, chất hữu cơ và sự hình thành màng sinh học. Một nghiên cứu đã được tiến hành để đánh giá hiệu quả của natri hypochlorite. Trong nước biển vô trùng, ở nồng độ 1 và 5ppm, người ta thấy rằng quần thể vi khuẩn phát sáng V. harveyi đã bị loại bỏ hoàn toàn ở 106 CFU/mL trong 30 phút. Tuy nhiên, khi kết hợp với một chất hữu cơ (0,1% peptone), người ta đã chứng minh rằng clo không hiệu quả trong việc ức chế V. harveyi ở tỷ lệ đưa vào dưới 50ppm (Abraham và cộng sự, 2002). Đã có báo cáo về các trường hợp số lượng Vibrio tăng nhanh sau khi dư lượng clo biến mất. Điều này được mong đợi vì clo sẽ không chỉ làm giảm số lượng Vibrio cạnh tranh mà còn tiêu diệt được tảo.
Kháng sinh
Các chiến lược sử dụng thuốc kháng sinh để giảm tác động của Vibrio (đặc biệt là V. parahaemolyticus) trong hệ tiêu hóa của tôm có thể giúp bảo vệ tôm. Một số hỗn hợp tinh dầu (EO) và hỗn hợp axit hữu cơ (OA) đã được chứng minh là có hiệu quả do đặc tính ức chế Vibrio của chúng như trong Hình 5. Các hợp chất này có thể được thêm vào thức ăn để đạt được hiệu quả trong hệ tiêu hóa của tôm. Hỗn hợp OA đã được chứng minh là có tác dụng ức chế sự phát triển của V. parahaemolyticus ở liều lượng ≥5000 ppm và hỗn hợp EO có tác dụng ức chế sự phát triển của V. parahaemolyticus ở liều lượng ≥500 ppm.
Hình 4. Sự ức chế sinh trưởng của V. parahaemolyticus sau khi tiếp xúc với hỗn hợp axit hữu cơ và hỗn hợp tinh dầu. (Nguồn: BIOMIN)
Hình 5. Hiệu quả khác nhau của vi khuẩn probiotic đối với V. parahaemolyticus gây bệnh. (Nguồn: BIOMIN)
Probiotics
Probiotics là một phương pháp khác để kiểm soát dịch bệnh rất hữu ích trong nuôi trồng thủy sản. Probiotics được sử dụng trực tiếp trong nước hoặc bổ sung vào thức ăn. Phương thức hoạt động của probiotics là chủ động ức chế sự xâm nhập của mầm bệnh tiềm ẩn trong đường tiêu hóa bằng cách sản xuất các chất diệt khuẩn, cạnh tranh chất dinh dưỡng và không gian, và điều chỉnh hệ thống miễn dịch. Với các probiotics được bào chế cẩn thận, các phương thức hoạt động có thể có tác dụng bổ sung và/hoặc hiệp đồng. Ví dụ, cung cấp khả năng kháng bệnh cao hơn bằng cách cải thiện phản ứng miễn dịch và loại trừ mầm bệnh.
Một nghiên cứu đã được tiến hành để phân tích các loài probiotics trong việc ức chế sự phát triển của vi khuẩn V. parahaemolyticus gây bệnh. Như thể hiện trong Hình 5, các chủng probiotics như Pediococcus acidilactici, Enterococcus faecium, Lactobacillus reuteri và Bacillus subtilis #3 đã được chứng minh là có tác dụng ức chế V. parahaemolyticus. Nghiên cứu này cho thấy rằng không phải mọi tác nhân gây bệnh đều có thể xử lý bởi vi khuẩn Bacillus.
Theo Aqua Culture Asia Pacific
Nguồn: https://aquaasiapac.com/2020/09/29/revisiting-vibriosis-in-shrimp-aquaculture/
Biên dịch: Huyền Thoại – Tôm Giống Gia Hóa Bình Minh
TÔM GIỐNG GIA HÓA – CHÌA KHÓA THÀNH CÔNG
Xem thêm:
- Hiện Trạng Sử Dụng Trứng Artemia Và Sản Xuất Bền Vững Trong Tương Lai
- Liệu Di Truyền Có Thể Cải Thiện Sức Khỏe Và Tốc Độ Tăng Trưởng Của Tôm Thẻ Chân Trắng Nuôi Ở Mức Độ Nào?
- Liệu Việc Bổ Sung Đất Sét Montmorillonite Vào Khẩu Phần Ăn Có Thể Giúp Giảm Thiểu Dịch Bệnh AHPND Trên Tôm Nuôi Không?