Tóm tắt

Nghiên cứu này nhằm đánh giá hiệu quả của các sản phẩm y tế dự phòng (PHP) trên ấu trùng tôm sú (Penaeus monodon) trong giai đoạn ương dưỡng, bao gồm 5 nghiệm thức: men vi sinh trong thức ăn (F_PRO), men vi sinh trong nước (W_PRO), sự kết hợp giữa nước và men vi sinh trong thức ăn (FW_SYN), biofloc, sự kết hợp của biofloc và men vi sinh trong thức ăn (F_PRO & biofloc), và nhóm đối chứng, mỗi lần lặp lại 5 lần. Mỗi bể chứa 450 lít nước và thả 700 PL15, trọng lượng 0,008±0,00 g với mật độ 1,56 PL/L, nuôi trong 27 ngày. Không có sự khác biệt đáng kể về nhiệt độ nước, oxy hòa tan, độ kiềm và tổng nitơ amoniac giữa các nghiệm thức và đối chứng. Độ pH và nitrit ở biofloc và F_PRO & biofloc thấp hơn so với các nghiệm thức khác. Trọng lượng cơ thể cuối cùng, mức tăng trọng, tốc độ tăng trưởng cụ thể và tỷ lệ che phủ thức ăn cao hơn đáng kể (p ≤ 0,05) ở F_PRO & biofloc so với các nghiệm thức và đối chứng khác. Một thử nghiệm căng thẳng về độ mặn cho thấy tỷ lệ sống cao hơn đáng kể ở F_PRO & biofloc, sau đó là biofloc so với các nghiệm thức và đối chứng khác. Nghiên cứu này cho thấy nuôi tôm chỉ bằng biofloc hoặc kết hợp với men vi sinh trong thức ăn có thể làm tăng tốc độ tăng trưởng và khả năng chống lại các tác nhân gây stress môi trường. Cần có thêm các thử nghiệm tại trang trại để xác nhận tính hiệu quả của PHP.

Giới thiệu

Việc đánh bắt thủy sản giảm sút và nhu cầu thủy sản trong nước và quốc tế ngày càng tăng đang thúc đẩy việc thâm canh nuôi trồng thủy sản quy mô nhỏ trên khắp châu Á và châu Phi. Nhu cầu tối ưu hóa lợi nhuận khiến họ dễ bị tổn thương trước những thay đổi về chi phí đầu vào và hiệu quả. Quan trọng nhất, khả năng chẩn đoán hạn chế khiến họ gặp khó khăn trong việc quản lý y tế cho con nuôi. Họ thường sử dụng các sản phẩm y tế dự phòng (PHP) có nguồn gốc và hiệu quả không chắc chắn, gây ra những lo ngại về an toàn và sức khỏe môi trường, động vật và người tiêu dùng.

Bangladesh là một quốc gia thích hợp cho nuôi trồng thủy sản với nguồn tài nguyên sinh lý và điều kiện khí hậu thuận lợi. Trong đó, nuôi tôm sú (Penaeus monodon) là ngành nuôi trồng thủy sản ven biển chủ đạo. Nhu cầu thị trường nội địa và xuất khẩu tăng nhanh thúc đẩy thâm canh, do các hộ nông dân sản xuất nhỏ dẫn đầu. Việc thâm canh này mang đến những thách thức về quản lý sức khỏe, đặc biệt trong bối cảnh hạn chế sử dụng kháng sinh.  Trong vài năm qua, nông dân Bangladesh đang ngày càng phụ thuộc vào PHP.

Probiotic là sản phẩm y tế dự phòng (PHP) được sử dụng rộng rãi nhất trong nuôi trồng thủy sản. Chúng được sử dụng để phòng bệnh, đặc biệt là các bệnh do vi khuẩn, thông qua hai cơ chế chính: loại trừ cạnh tranh và điều hòa miễn dịch (Hai, 2015; HOSEinifar và cộng sự, 2018). Probiotic cũng được coi là giải pháp thay thế an toàn với môi trường so với việc sử dụng kháng sinh để phòng bệnh. Các nghiên cứu trước đây cho thấy PHP có thể đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì chất lượng nước, chất lượng đất và sức khỏe cũng như tăng cường sự tăng trưởng và tỷ lệ sống của tôm (Decamp và cộng sự, 2008; Wang và cộng sự, 2008). Tuy nhiên, hiệu quả của PHP thường không chắc chắn do nguồn gốc và chất lượng sản phẩm không đồng nhất. Việc sử dụng PHP không hiệu quả có thể gây lãng phí chi phí cho người nuôi, đặc biệt là các hộ sản xuất nhỏ. Hiện nay, chưa có khung pháp lý và quy định về chất lượng cho việc sản xuất và tiếp thị PHP. Ngoài ra, nông dân đặc biệt là các hộ sản xuất nhỏ, còn thiếu kiến thức về hiệu quả của PHP, dẫn đến việc sử dụng không hợp lý.

Hệ thống biofloc là một công nghệ tiên tiến trong nuôi trồng thủy sản, mang lại nhiều lợi ích cho cả môi trường và sản xuất. Hệ thống này khai thác sự phát triển của các vi sinh vật có lợi để duy trì chất lượng nước và cung cấp dinh dưỡng tốt hơn cho các sinh vật nuôi (Emerenciano và cộng sự, 2017). Hệ thống biofloc đã được chứng minh là giúp tăng tỷ lệ sống và tăng trưởng của ấu trùng tôm. Việc sử dụng biofloc giúp giảm chi phí thức ăn và chi phí xử lý môi trường. Các vi sinh vật được phát triển trong hệ thống biofloc giúp bảo vệ chống lại nhiễm trùng thông qua cạnh tranh với các sinh vật gây bệnh (Crab và cộng sự, 2010; Emerenciano và cộng sự, 2017).

Một cuộc khảo sát tại Bangladesh đã tìm thấy hơn 200 loại PHP được sử dụng trong nuôi tôm (dự án IMAQulate, dữ liệu chưa được công bố). Tuy nhiên, hiệu quả của PHP trong giai đoạn ương dưỡng tôm con vẫn chưa được hiểu đầy đủ. Trong nghiên cứu này, giai đoạn ương dưỡng được xác định là điểm can thiệp quan trọng vì: i) có tỷ lệ tử vong cao, ii) ảnh hưởng đến hiệu quả nuôi thương phẩm, iii) Chi phí áp dụng PHP ở giai đoạn ương dưỡng thấp hơn so với giai đoạn nuôi thương phẩm và iv) Xu hướng ương tôm giống kéo dài từ 3 đến 4 tuần trong ao lót/che phủ an toàn sinh học ngày càng tăng (dự án IMAQulate, dữ liệu chưa được công bố). Do đó, mục đích của nghiên cứu này là đánh giá hiệu quả của từng cá thể và việc sử dụng kết hợp men vi sinh chống lại sự kiểm soát “không điều trị” và hệ thống biofloc trong thời gian ương dưỡng kéo dài.

Chuẩn bị nghiên cứu

Địa điểm nghiên cứu và động vật nghiên cứu

Thí nghiệm được tiến hành tại Radiant Hatchery and Culture Ltd., Noabeki, Shayamnagar, Satkhira, Bangladesh (22°21’17.0″N, 89°12’13.2″E). Ấu trùng tôm giống sạch mầm bệnh (SPF) (PL15), với trọng lượng và chiều dài trung bình lần lượt là 0,0077±0,0031 g và 1,30±0,14 cm, được thu thập từ trại giống MKA, quận Cox’s Bazar (21°16’50,4″N, 92°02’58,0″Đ). PL được thích nghi với độ mặn 10 trong bể trong 24 giờ trước khi chuyển sang bể thí nghiệm.

Thiết kế thí nghiệm

PL được phân bổ ngẫu nhiên vào nhóm đối chứng âm tính không bổ sung PHP và năm nhóm xử lý là probiotic trong thức ăn (F_PRO), probiotic trong nước (W_PRO), kết hợp probiotic trong thức ăn và nước (FW_SYN), biofloc và kết hợp lần lượt của men vi sinh và biofloc trong thức ăn (F_PRO & biofloc) (Bảng 1). Kỹ thuật viên trại ươm và kỹ thuật viên phòng thí nghiệm không biết nhóm nào là nhóm nào để tránh sai lệch. 30 bể sợi thủy tinh có dung tích 600 L đã được sử dụng làm đơn vị thử nghiệm, với 5 lần lặp lại cho mỗi nghiệm thức. Mỗi bể được đổ đầy 450 L nước và thả 700 PL với mật độ 1,56 PL/L sau đó nuôi trong 27 ngày. Sự tăng trưởng, tỷ lệ sống, tỷ lệ trao đổi thức ăn (FCR), sinh khối cuối cùng, trọng lượng cuối cùng và chiều dài được ghi lại vào cuối giai đoạn ương dưỡng kéo dài.

Bảng 1: Thiết kế thí nghiệm và xử lý tôm sú Penaeus monodon ở giai đoạn ương dưỡng kéo dài.

Chuẩn bị bể nuôi

Bể sợi thủy tinh được làm sạch, khử trùng và đổ đầy 450 L nước có độ mặn 10. Khoảng 10% lượng nước được thay bằng nước ngọt hàng tuần ở tất cả các nghiệm thức trong 27 ngày ngoại trừ các nghiệm thức BFT và F_PRO & biofloc (không thay nước). Các bể được phân bổ ngẫu nhiên cho F_PRO, W_PRO, FW_SYN, BFT, F_PRO& biofloc và đối chứng sau khi thả PL.

PHP và biofloc

Đối với thử nghiệm này, PHP đã được chọn dựa trên công cụ đã phát triển trước đó là ‘dự án IMAQUlate’, trong đó PHP được đánh giá theo các yếu tố sau: mức độ sử dụng phổ biến, chứng nhận đảm bảo chất lượng sản xuất, phương thức hoạt động, thành phần hoạt chất và nồng độ. Hai yếu tố sau được đánh giá thông qua phân tích trong phòng thí nghiệm và so sánh với công bố của nhà sản xuất trên bao bì sản phẩm. PHP được chọn từ các sản phẩm ‘có điểm cao’ được đánh giá bằng công cụ phân tích phả hệ. Liều lượng, tần suất và phương thức sử dụng men vi sinh (Bảng 1) được sử dụng theo hướng dẫn của nhà sản xuất. Probiotic trong thức ăn đã được bổ sung dưới dạng 5g/kg thức ăn mỗi bữa cho các nghiệm thức F_PRO, FW_SYN và F_PRO & biofloc. Bột probiotic trong thức ăn, hỗn hợp Bacillus subtilis, Bacillus licheniformis, Bacillus pumilus, được trộn vào thức ăn 30 phút trước mỗi bữa ăn. Probiotic trong nước, Bacillus subtilis, Bacillus licheniformis, được thêm vào dưới dạng 1 g/1000 L nước mỗi ngày một lần cho nghiệm thức W_PRO và FW_SYN. Bột men vi sinh trong nước lần đầu tiên được thêm vào một lít nước bể và giữ trong điều kiện sục khí một giờ trước khi thêm vào bể theo hướng dẫn của nhà sản xuất. Trong các nghiệm thức xử lý bằng biofloc và F_PRO & biofloc, mật đường được bổ sung 3 lần mỗi ngày như một nguồn carbon (C) bên ngoài để điều chỉnh tỷ lệ Carbon (C):Nitơ (N) ở mức 16:1. Lượng C và N trong thức ăn và lượng mật đường thu được được tính toán theo Emerenciano và cộng sự (2012). Lượng mật đường được tính toán hàng ngày dựa trên lượng thức ăn và tỷ lệ C:N được điều chỉnh.

Thức ăn và quản lý cho ăn

Trong 3 ngày đầu tiên của thí nghiệm, tôm giống được cho ăn Artemia và thức ăn công nghiệp “FRIPPAK Raceway 500”, 3 lần/ngày. Từ ngày thứ 4 đến ngày thứ 10, tôm giống chỉ được cho ăn thức ăn FRIPPAK Raceway 500 và sau đó sử dụng thức ăn thương mại FRIPPAK Raceway 700 cho đến khi kết thúc thí nghiệm. Phân tích gần đúng của “FRIPPAK Raceway 500 và FRIPPAK Raceway 700” là; protein 46%, lipid 7%, chất xơ 3% và độ ẩm 9%. Từ ngày thứ 4, chế độ cho ăn theo hướng dẫn của nhà sản xuất, 6 lần/ngày vào lúc 02:00, 06:00, 10:00, 14:00, 18:00 và 22:00 h, bắt đầu với liều 1 g/ngày /bể sau đó tăng hàng ngày 0,3 g.

Thông số chất lượng nước

Nhiệt độ nước, oxy hòa tan (DO) và độ pH được đo 2 lần/ ngày bằng máy đo nhiệt độ DO di động (Lutron PDO 519) và máy đo pH HANNA (HI98107). Tổng nitơ amoniac (TAN) và nitrit (NO2-N) được đo hàng ngày bằng bộ dụng cụ đo màu: Advance Pharma Co Ltd., Thái Lan và Marine Leader Co., Ltd., Thái Lan. Độ kiềm được đo hàng ngày bằng bộ dụng cụ kiểm tra hóa học dựa trên chuẩn độ (Hanna Instrument – HI3811). Độ mặn được đo hàng ngày bằng khúc xạ kế (khúc xạ kế ATAGO-Master, Tokyo, Nhật Bản). Tổng chất rắn lơ lửng (TSS) được đo hàng ngày bằng Imhoff Cone (1000 mL, DIN 12672, VITLAB) chỉ trong các nghiệm thức BFT và F_PRO&BFT.

Thông số tăng trưởng

Trọng lượng và chiều dài cơ thể ban đầu của PL15 (n=60) được đo vào ngày thả giống vào bể ương. Vào cuối thí nghiệm, 30 cá con được thu thập ngẫu nhiên từ mỗi bể để đo trọng lượng và chiều dài cơ thể cuối cùng. Các mẫu được sử dụng cho các biện pháp này sau đó đã bị loại bỏ. Dữ liệu về trọng lượng cơ thể và lượng thức ăn ăn vào quan sát được được sử dụng để tính toán các chỉ số tăng trưởng sau:

Tăng cân = cân nặng cuối cùng (g) – cân nặng ban đầu (g)

Trong đó In là số logarit và W1 và W2 lần lượt là trọng số tại thời điểm t1 và t2, với t1 và t2 lần lượt là ngày đầu tiên và ngày cuối cùng của thử nghiệm.

Chiều dài tăng = chiều dài cuối cùng (cm) – chiều dài ban đầu (cm)

Mối quan hệ chiều dài trọng lượng (hệ số điều kiện, k) được tính toán theo Ali và cộng sự (2008) sử dụng phương trình:

Trong đó W là trọng lượng tôm (g) và L là tổng chiều dài tôm (cm)

Phân tích vi sinh

Kết thúc thí nghiệm, các mẫu nước và tôm được tiến hành phân tích tổng số vi khuẩn (TBC) và tổng số Vibrio (TVC). Môi trường thạch dinh dưỡng (Allen và cộng sự, 2004) và môi trường thạch thiosulfate citrate mật muối-mật đường (TCBS) lần lượt được sử dụng cho TBC và TVC (Jorgensen và cộng sự, 2015). Năm con non được thu thập ngẫu nhiên từ mỗi lần lặp lại. Toàn bộ con vật được xử lý để chuẩn bị dung dịch gốc và cân bằng cân điện vô trùng (HR-200). Sau đó, các mẫu đã cân được lấy vào máy trộn xoáy vô trùng với 5 ml nước pepton muối kiềm để trộn đúng cách. Các mẫu hỗn hợp được lấy trong các ống eppendorf vô trùng để ly tâm ở tốc độ 3.000 vòng/phút trong 4 phút (Máy ly tâm (5415 D). Sau khi ly tâm, phần nổi phía trên được thu vào ống falcon vô trùng, sau đó pha loãng nối tiếp. 1 ml dung dịch đã pha loãng được hút vào môi trường thạch vô trùng bằng micropipette vô trùng và dàn đều bằng que thủy tinh hình chữ L đã khử trùng. Tất cả các đĩa được ủ ở 30°C trong 24 giờ sau khi phết đều. Sau khi ủ, đếm các khuẩn lạc vi khuẩn phát triển trong các đĩa, chỉ xem xét các đĩa chứa từ 10 và 300 khuẩn lạc.

Kiểm tra độ mặn

Vào cuối thí nghiệm, 30 con được chọn ngẫu nhiên từ mỗi bể được đặt vào thùng nhựa có ga 5L với độ mặn 5 ‰ và không cho ăn (Chen và cộng sự, 2016). Độ mặn giảm từ 5 xuống 1 sau 24 giờ và tiếp tục giảm từ 1 xuống 0 sau 24 giờ nữa. Tôm chết được thu thập và đếm cứ sau 4 giờ.

Kết quả và thảo luận

Chất lượng nước

Tất cả các thông số chất lượng nước (Bảng 2) đều nằm trong phạm vi tối ưu cho sự phát triển của tôm (Kannupandi và cộng sự, 2002; Krishnaprakash, 2007; Uddin và cộng sự, 2013). Không có sự khác biệt đáng kể về giá trị trung bình của nhiệt độ, DO, độ kiềm và TAN giữa các nghiệm thức. Nitrite (NO3-N) thấp hơn đáng kể (P ≤ 0,05) trong biofloc và F_PRO & biofloc so với các nghiệm thức khác. Điều này cho thấy việc bổ sung mật đường làm nguồn carbon thúc đẩy sự phát triển của vi khuẩn dị dưỡng, dẫn đến quá trình khử nitơ vô cơ. Độ pH cũng thấp hơn đáng kể (P ≤ 0,05) trong các nghiệm thức xử lý bằng biofloc (BFT và F_PRO & biofloc) so với các nghiệm thức đối chứng và nghiệm thức bằng men vi sinh duy nhất. Những giá trị pH nước thấp này có thể là do hàm lượng carbon vô cơ cao gây ra bởi sự phân hủy chất hữu cơ của vi khuẩn (Panjaitan, 2010). Mức TSS (Bảng 2) được tăng dần trong thời gian thử nghiệm. Tuy nhiên, giá trị trung bình của TSS trong thí nghiệm hiện tại thấp hơn phạm vi được khuyến nghị cho nuôi tôm trong hệ thống biofloc (Samocha và cộng sự, 2007).

Bảng 2: Giá trị trung bình (± SE) của các thông số chất lượng nước trong giai đoạn ương dưỡng mở rộng

Các chỉ số dưới khác nhau trong các hàng biểu thị sự khác biệt đáng kể (P<0,05)

Hiệu suất tăng trưởng

Trọng lượng cơ thể cuối cùng và mức tăng trọng của cá con cao hơn đáng kể (P ≤ 0,05) ở F_PRO & biofloc so với các nghiệm thức và đối chứng khác, với biofloc ở mức trung bình (Bảng 3). Tôm trong nhóm biofloc và F_PRO&biofloc ăn bioflocs lơ lửng trong nước, cung cấp thêm thức ăn và thúc đẩy tăng trưởng. Bioflocs cung cấp protein, lipid, khoáng chất và vitamin cần thiết cho sự phát triển của tôm. Tốc độ tăng trưởng (SGR) cao nhất ở nhóm F_PRO & biofloc, cao hơn đáng kể so với các nhóm khác (P ≤ 0,05). Tỷ lệ sống sót cao hơn 75% ở tất cả các nhóm, không có sự khác biệt đáng kể. FCR thay đổi từ 0,74 đến 0,90 (Bảng 3) và cao hơn đáng kể (p ≤ 0,05) ở nghiệm thức biofloc & F_PRO so với các nghiệm thức khác và CTRL; tuy nhiên, FCR không khác biệt đáng kể (p ≥ 0,05) giữa biofloc và biofloc & F_PRO. Xu hướng kết quả tương tự được lặp lại trong các nghiên cứu trước đây đối với tôm được sản xuất trong hệ thống biofloc (Ray và Lotz, 2014; Effendy và cộng sự, 2016).

Bảng 3: Các thông số tăng trưởng (trung bình ± SE) cuối giai đoạn vườn ươm kéo dài

Các chỉ số dưới khác nhau trong các hàng biểu thị sự khác biệt đáng kể (P<0,05)

Thông số vi sinh

TBC trong nước cao hơn ở nhóm W_PRO (3,2±0,73 × 106 CFU/ ml) so với các nhóm khác, nhưng không có sự khác biệt đáng kể (Bảng 4). TBC trong tôm dao động từ 3,1±1,1 đến 6,0±1,9 × 106 CFU/ g và không có sự khác biệt đáng kể giữa các nhóm. TBC cao hơn ở nhóm F_PRO & biofloc so với đối chứng. Hệ thống biofloc và men vi sinh F_PRO có thể làm tăng lượng vi khuẩn có lợi trong ruột tôm Mật đường trong thức ăn cũng góp phần thúc đẩy sự phát triển của vi sinh vật có lợi. TVC trong mẫu nước và tôm được tìm thấy ở đối chứng cao hơn (p ≥ 0,05) so với các nghiệm thức sử dụng men vi sinh và mật đường (Bảng 4). Trong nghiên cứu này, việc áp dụng chế phẩm sinh học và mật đường trong các nghiệm thức có chứa Bacillus spp trong chế phẩm sinh học có thể là nguyên nhân khiến TVC trong nước và tôm thấp hơn so với đối chứng. Điều này phù hợp với Li và cộng sự (2009) và Villaseñor và cộng sự. (2013) báo cáo rằng việc bổ sung hỗn hợp men vi sinh thương mại có chứa Bacillus có thể thay đổi quần thể vi khuẩn đường ruột ở tôm bao gồm việc giảm số lượng Vibrio. Trong nhiều trường hợp, Vibrio spp. là những vi khuẩn cơ hội, chỉ gây bệnh và làm chết động vật trong tình trạng căng thẳng về mặt sinh lý (Alderman và Hastings 1998).

Bảng 4: Tổng số vi khuẩn (TBC) và tổng số Vibrio (TVC) của mẫu nước và mẫu tôm cuối giai đoạn ương dưỡng kéo dài

Các chỉ số dưới khác nhau trong columan cho thấy sự khác biệt đáng kể (P<0,05)

Kiểm tra độ mặn

Hình 1 cho thấy tỷ lệ sống của cá con trong thử nghiệm stress độ mặn. Kết quả cho thấy tỷ lệ sống cao nhất ở nhóm F_PRO & BFT, sau đó là nhóm biofloc và Có sự khác biệt đáng kể (P ≤ 0,05) về tỷ lệ sống giữa các nhóm. Việc áp dụng công nghệ biofloc có thể cải thiện chất lượng và năng suất của cá con, giúp chúng chịu đựng tốt hơn các điều kiện căng thẳng. Kiểm tra stress là phương pháp được sử dụng phổ biến để đánh giá chất lượng của các loài nuôi (MacNiven và Little, 2001). Thử nghiệm stress độ mặn đã được sử dụng để đánh giá khả năng thẩm thấu như một chỉ số về sức khỏe chung của vật nuôi (MacNiven và Little, 2001 và Salze và cộng sự, 2008). Penaeus monodon thể hiện khả năng điều hòa siêu thẩm thấu ở độ mặn thấp và điều hòa giảm thẩm thấu ở độ mặn cao (Cheng và Liao 1986).

Hình 1: Tỷ lệ sống tích lũy của tôm con tiếp xúc với thử nghiệm stress mặn ở cuối giai đoạn ương dưỡng kéo dài bằng cách sử dụng Kaplan-Meier (Log-rank Mantel Cox). Các nhóm không có chung chữ cái có sự khác biệt đáng kể (p < 0,05).

Kết luận

Nghiên cứu này cho thấy tôm nuôi trong hệ thống biofloc hoặc sử dụng kết hợp biofloc và men vi sinh có hiệu suất tăng trưởng cao hơn so với chỉ sử dụng men vi sinh. Tỷ lệ sống của tôm cao nhất khi sử dụng kết hợp biofloc và men vi sinh, sau đó là biofloc. Nồng độ pH và nitrit trong hệ thống biofloc thấp hơn so với các hệ thống khác. Tuy nhiên, nghiên cứu được thực hiện trong điều kiện trại giống thương mại được kiểm soát, có thể khác với điều kiện thực tế tại trang trại. Cần thực hiện thêm các thử nghiệm tại trang trại để xác định hiệu quả của hệ thống biofloc và men vi sinh trong điều kiện thực tế.

Theo Hazrat Ali, Muhammad Meezanur Rahman, Ahmed Jaman, Mahmoud Eltholth, Francis J. Murray

Nguồn: https://www.academia.edu/89385851/Assessment_of_the_efficacy_of_prophylactic_health_products_on_water_quality_and_shrimp_Penaeus_monodon_performance_at_the_nursery_phase

Biên dịch: Nguyễn Thị Quyên – Tôm Giống Gia Hóa Bình Minh

TÔM GIỐNG GIA HÓA – CHÌA KHÓA THÀNH CÔNG

Xem thêm:

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *