Nâng cao kiến thức và các chiến lược mới giúp người nuôi tôm quản lý dịch bệnh.
Một cách quản lý EMS tối ưu là loại bỏ các chất nền tạo điều kiện thuận lợi cho sự hình thành và phát triển của quần thể V. parahaemolyticus, chẳng hạn như tôm lột xác, ao phải được loại bỏ bằng cách hút nước thường xuyên.
Hội chứng chết sớm (EMS), hoặc bệnh hoại tử gan tụy cấp tính (AHPND), do một chủng vi khuẩn cụ thể là Vibrio parahaemolyticus gây ra. Đây là một loài vi khuẩn đã được nghiên cứu kỹ, được biết đến phổ biến trong ngành nuôi tôm trong nhiều thập kỷ, và góp phần tạo nên lượng lớn kiến thức về Vibrio trong nuôi trồng thủy sản và trong các lĩnh vực liên quan khác, cụ thể là về V. fisheri và V. harveyi, và mầm bệnh ở người V. cholera và V. parahaemolyticus.
Trong hơn 40 năm, họ Vibrionaceae luôn được xác định là một trong những họ thống trị trong hệ thực vật đường ruột tự nhiên của tôm He hoang dã và tôm nuôi. Vì Vibrio có một vị trí tự nhiên trong hệ vi sinh của tôm He, với một tỷ lệ lớn trong số chúng là vô hại nên không có nghĩa là nó được mặc nhiên coi là một mầm bệnh bắt buộc. Tuy nhiên, ngay sau khi việc nuôi tôm mở rộng hơn, các báo cáo về dịch bệnh và tỷ lệ chết ở tôm do Vibrio gây ra bắt đầu lan rộng. V. harveyi là một trong những thủ phạm đầu tiên và thường xuyên nhất được xác định, sau đó là V. parahaemolyticus và những loài khác. Bệnh này đã được gọi chung là “bệnh Vibriosis” và một trong những dấu hiệu bệnh điển hình nhất của nó là làm tình trạng phát sáng trên tôm gia tăng. Kể từ đó, có nhiều tài liệu đã được viết về độc lực của Vibrio trên tôm.
Độc lực Vibrio
Các gen chuyển giao giữa các Vibrio thông qua cơ chế truyền ngang. Plasmid hoặc các bacteriophage chuyển vật chất di truyền từ vi khuẩn sang vi khuẩn, dẫn đến chuyển độc lực và sản sinh độc tố. Điều này được biết đến tương đối rõ ràng từ các đợt dịch bệnh ở người do V. cholera và V. parahaemolyticus và cả ở Vibrio gây phát sáng ở biển, chẳng hạn như V. harveyi. Các loại độc tố, cách thức các gen được truyền giữa Vibrio và cách chúng gây ra các dấu hiệu lâm sàng đã được mô tả rộng rãi đến người và tôm. Trên thực tế, một số công bố đã báo cáo về tình trạng hoại tử tế bào gan tụy và tế bào ruột của tôm do các chủng Vibrio gây độc tố, chủ yếu là V. harveyi.
Hầu hết các vi khuẩn Vibrio gây bệnh và tử vong ở tôm đều được coi là mầm bệnh cơ hội / thứ cấp, chúng lợi dụng các điều kiện môi trường không thuận lợi để áp đảo vật chủ – tôm có hệ thống miễn dịch bị tổn thương. Điều này được quan sát thấy khi các điều kiện nuôi cấy dưới mức tối ưu và căng thẳng. Một số chủng Vibrio sp cụ thể đã được xác định là mầm bệnh chính, có khả năng giết chết tôm trong các trại giống và ao nuôi thương phẩm ngay cả trong điều kiện tối ưu, và những chủng này đã trở thành một nguồn đáng lo ngại chính.
Người ta đã tuyên bố rằng EMS / AHPND là do vi khuẩn V. parahaemolyticus mới xuất hiện, gây bệnh chính, có khả năng ảnh hưởng xấu đến tôm hoàn toàn khỏe mạnh cho dù có nỗ lực quản lý trang trại đến đâu. Tuy nhiên, thực tế là sự phân biệt giữa các mầm bệnh chính và phụ là giả tạo. Trong cả hai trường hợp, có sự tác động lẫn nhau kinh điển giữa độc lực của vi khuẩn và áp lực lây nhiễm, khả năng bảo vệ của vật chủ và ảnh hưởng của môi trường, những yếu tố cuối cùng quyết định hướng cân bằng. Trong tất cả các trường hợp được công bố cho đến nay, Vibrio liều cao phải được phân lập để tạo bệnh trong điều kiện phòng thí nghiệm.
Hình 1. Các biện pháp kết hợp để quản lý toàn diện ở tất cả các giai đoạn
Thực hiện biện pháp quản lý hội chứng chết sớm EMS toàn diện
Điều quan trọng là phải xem xét rằng EMS là do vi khuẩn, không phải vi rút gây ra. Phần lớn các biện pháp an toàn sinh học mà ngành công nghiệp nuôi tôm đã phát triển trên toàn cầu trong hai thập kỷ qua đều nhằm vào các bệnh do vi rút gây ra và chủ yếu dựa trên việc loại trừ mầm bệnh. Điều này khó đạt được hơn nhiều với một mầm bệnh phổ biến như V. parahaemolyticus.
Dựa trên thông tin sẵn có và kinh nghiệm về Vibrio, chúng tôi đã thiết kế một phương án quản lý toàn diện có thể giảm thiểu thành công thiệt hại do vi khuẩn gây ra cho tôm nuôi. Cách tiếp cận của công ty chúng tôi, INVE Aquaculture luôn mang tính tổng thể. Đầu tiên và quan trọng nhất, các thực hành tốt cơ bản phải được thiết lập trong việc quản lý các hệ thống nuôi trồng thủy sản để cung cấp một môi trường tối ưu và ổn định. Thứ hai, sức khỏe vật chủ được củng cố bằng cách tối ưu hóa dinh dưỡng và các chất bổ trợ hỗ trợ cho hệ miễn dịch. Thứ ba, về mức độ tác nhân lây nhiễm, chúng tôi hướng tới việc giảm thiểu sự hiện diện của vi rút và vi khuẩn có tính độc, đồng thời ngăn chặn vi khuẩn cơ hội có cơ hội lấn át vật chủ.
Tại các cơ sở nhân giống.
Kiểm tra thích hợp tôm post trước khi thả vào ao nuôi thương phẩm, bao gồm cả việc sử dụng các kỹ thuật phân tử như PCR, là rất quan trọng để đảm bảo không có động vật bị nhiễm bệnh nào trong ao nuôi.
Một trung tâm nhân giống tốt chỉ có thể được vận hành dưới sự kiểm dịch nghiêm ngặt, với một chương trình giám sát để duy trì tình trạng không có mầm bệnh (SPF) cụ thể. Nhóm các chuyên gia phải lập kế hoạch và thực hiện một chương trình dài hạn về nhân giống chọn lọc cho các đặc điểm mong muốn, trong khi vẫn kiểm soát được giao phối cận huyết. Trong bối cảnh của EMS, tôm bố mẹ được coi là nguyên nhân của vấn đề, bao gồm cả việc nhân giống sai cách có thể dẫn đến giao phối cận huyết trên diện rộng hoặc tôm bố mẹ có thể là vật mang các chủng vi khuẩn gây EMS. Do đó, chúng tôi ủng hộ mạnh mẽ việc khử trùng nauplii và các thiết bị được sử dụng trong trại giống và trại ương để có được sự kiểm dịch thực sự. Trong bối cảnh này, việc cải thiện hơn nữa chế độ ăn bằng thức ăn nhân tạo cho tôm bố mẹ có thể cho phép loại bỏ nguy cơ lây truyền mầm bệnh qua thức ăn tự nhiên.
Kiểm tra tôm post thích hợp trước khi thả vào ao nuôi thương phẩm, bao gồm cả việc sử dụng các kỹ thuật phân tử như PCR, là rất quan trọng để đảm bảo không có động vật bị nhiễm bệnh nào đi vào ao nuôi.
Tại trại giống và các cơ sở ương dưỡng.
Ngay khi ấu trùng tôm bắt đầu kiếm ăn, dinh dưỡng tối ưu sẽ trở thành yếu tố chính để đảm bảo cơ hội sống sót và phát triển tốt nhất trong cuộc sống tiếp theo của chúng. Bằng trực giác, hầu hết các nhà quản lý trại giống đều biết rằng đây là một quá trình phức tạp được điều phối bởi các quá trình vi sinh tự nhiên và việc quản lý thức ăn nhân tạo và thức ăn tươi sống (tảo, Artemia). Quy trình của chúng tôi nhằm mục đích kiểm soát các yếu tố này càng nhiều càng tốt, bằng cách bổ sung một mặt lợi khuẩn probiotic và mặt khác là sự cân bằng tốt nhất giữa Artemia được kiểm soát chất lượng và khẩu phần ăn khô. Kết hợp với nhau, điều này dẫn đến các điều kiện ổn định và được kiểm soát, khiến việc sử dụng kháng sinh là không cần thiết. Độ mạnh của tôm post được nuôi bằng quy trình ương dưỡng này được tối đa hóa bằng cách cung cấp các chất tăng cường sức khỏe cụ thể, cho phép chúng đối phó tốt hơn với các yếu tố gây căng thẳng gặp phải trong quá trình vận chuyển và khi thả trong môi trường mới. Điều này có thể được đánh giá một cách khách quan bằng cách ghi chép liên tục các biểu hiện tốt hơn của tôm trong các bài kiểm tra sốc.
Gần đây, chúng tôi đã tăng cường hơn nữa khả năng chống chịu căng thẳng này bằng cách áp dụng hỗn hợp chiết xuất thực vật trong chu kỳ ương giống và trong nước vận chuyển của tôm post. Các phân tử thực vật được chọn lọc đặc biệt này không gây chết ấu trùng tôm, nhưng tăng cường hệ thống phòng thủ của chúng bằng cách tạo ra các protein chịu được sốc nhiệt. Ngoài ra, chúng có tác dụng diệt khuẩn chọn lọc rõ rệt, đặc biệt chống lại vi khuẩn gram âm như V. parahaemolyticus. Do đó, tôm giống với chất lượng vượt trội có thể được chuyển đến các ao nuôi thương phẩm hoặc ao ương.
Hình 2. Sự cân bằng tốt nhất giữa thức ăn tổng hợp và Artemia.
Ương dèo tôm giống đến kích thước lớn hơn trước khi thả vào ao nuôi đã được khuyến khích mạnh mẽ kể từ khi bắt đầu xảy ra dịch bệnh EMS. Mặc dù một số người đã tuyên bố rằng điều này tránh được tỷ lệ chết sớm trong ao, nhưng có nhóm khác đã báo cáo rằng việc thực hành này không dẫn đến bất kỳ sự cải thiện nào. Khi thông tin đang được thu thập, những lời giải thích cho sự khác biệt về hiệu quả của việc sử dụng các bước trong khu ương dèo đã và đang xuất hiện. Trước hết, một khu ương dèo tốt cần có vốn đầu tư cao. Nó phải được tách biệt khỏi khu vực nuôi thương phẩm và các biện pháp an toàn sinh học rất nghiêm ngặt phải được áp dụng. Do lo sợ về EMS, nhiều người nuôi đã mắc sai lầm là để tôm quá lâu trong ao ương mà bỏ qua sức mang của hệ thống. Hơn nữa, rõ ràng rằng việc sử dụng thức ăn nuôi thương phẩm rẻ tiền làm giảm sự thành công của một khu ương tốt. Việc sử dụng khẩu phần thức ăn cho tôm giống không chỉ đáp ứng tốt hơn nhu cầu dinh dưỡng của tôm non, sự khác biệt về thành phần còn có ảnh hưởng mạnh mẽ đến hệ vi sinh vật phát triển trong tôm và trên phân. Cuối cùng, độ mạnh của tôm bột được thả ở mật độ cao sẽ được tối đa hóa thông qua việc bổ sung các chất tăng cường sức khỏe.
Hình 3. Giảm tải lượng Vibrio bằng cách sử dụng các chiết xuất thực vật trong quá trình vận chuyển.
Một quy trình ương dèo giống tốt, có thể là trong mương hoặc ao, cho phép kiểm soát tốt hơn và ổn định các điều kiện tăng trưởng, chu kỳ ngắn hơn trong ao mở và nhiều vụ hơn mỗi năm. Nhưng trên hết, trong bất kỳ khu ương tôm nào, không thể nào thay thế đội ngũ nhân viên được đào tạo tốt và hiểu rõ về quản lý nước bằng các sản phẩm có tuyên bố phóng đại hoặc việc sử dụng kháng sinh.
Hình 4. Tỉ lệ sống của tôm được cải thiện trong quá trình ương nhờ vào các chiết xuất thực vật.
Một cách quản lý EMS tối ưu là loại bỏ các chất nền tạo điều kiện thuận lợi cho sự hình thành và phát triển của quần thể V. parahaemolyticus, chẳng hạn như tôm lột xác, ao phải được loại bỏ bằng cách hút nước thường xuyên.
Ngoài ao nuôi
Trong quá trình chuyển tôm con từ ao ương sang ao nuôi thương phẩm, đây là cơ hội thứ hai để khử trùng có chọn lọc chống lại Vibrio và tăng cường khả năng chống stress của tôm. Chúng tôi nhận thấy tiềm năng đáng kể để tối ưu hóa lợi nhuận ròng từ một vụ nuôi tôm bằng cách làm này, vì ngay cả trước khi EMS trở thành vấn đề, phần lớn tỷ lệ tôm chết đã xảy ra trong những tuần đầu tiên sau khi thả giống.
Quản lý bùn đáy ao là một chiến lược quan trọng khác, vì chất hữu cơ tích tụ ở đáy ao cũng có thể là môi trường cho V. parahaemolyticus phát triển.
Không nên coi thường việc chuẩn bị ao kỹ lưỡng và áp dụng các nguyên tắc tương tự như đối với ương giống, chú ý đến an toàn sinh học và ổn định hóa học và vi sinh của nước lấy vào. Áp dụng chất khử trùng trong quá trình chuẩn bị ao nuôi làm giảm nguy cơ lây lan theo chiều ngang. Tuy nhiên, điều đó là chưa đủ và nếu điều trị độc lập, nó có thể làm tăng nguy cơ bệnh, vì vi sinh vật phát triển nhanh sẽ lấp đầy các hốc trống. Những gì chúng ta có thể làm là tạo một hệ sinh thái vi sinh vật trưởng thành với sự đa dạng về vi khuẩn. Cộng đồng vi sinh vật này sẽ ngăn V. parahaemolyticus trở thành một trong số ít loài ưu thế. Do đó, việc xử lý tiếp theo bằng lợi khuẩn probiotic sẽ ngăn chặn các mầm bệnh cơ hội phát triển, sinh sôi và xâm nhập vào tôm.
Nói đến hệ thống mở, tảo đóng một vai trò quan trọng trong các ao nuôi thương phẩm. Nên bón phân chất lượng cao, kết hợp với nguồn cacbon để có được sự cân bằng C: N: P thích hợp. Sau vài tuần, tùy thuộc vào mật độ nuôi, tải trọng hữu cơ trong nước sẽ tăng lên, và pha tảo sẽ chuyển sang pha do vi khuẩn dị dưỡng chi phối.
Trong giai đoạn này, ba điểm rất quan trọng: sục khí, pH và quản lý bùn. Các thiết bị sục khí phải được lắp đặt đúng cách để chúng trộn đều toàn bộ ao (đặc biệt quan trọng đối với hệ thống biofloc) và luôn duy trì mức oxy trên 4 mg / L. pH của nước phải được đệm bằng lượng kiềm thích hợp (> 150 mg / L) và không được phép dao động. Bùn dư phải được loại bỏ bằng cách hút bùn thường xuyên. Trong vấn đề quản lý bùn, có nhiều sự tương đồng giữa quản lý nước thải và khái niệm biofloc trong nuôi trồng thủy sản. Để có thể kiểm soát được nhiều nhất có thể về động lực của quá trình tạo bioflocs tự phát trong ao, bổ sung Bacillus sp đã chọn và giá thể là một trong số ít công cụ có sẵn cho người nuôi.
Quản lý bùn đáy ao là một biện pháp quan trọng khác, vì chất hữu cơ tích tụ ở đáy ao cũng có thể là môi trường cho V. parahaemolyticus.
Các chiến lược kiểm soát V. cholera và V. parahaemolyticus theo quan điểm của bệnh dịch ở người, tập trung chủ yếu vào quản lý nước thải, cụ thể là tách nước thải và nguồn nước. Việc ô nhiễm chéo nước đầu ra từ các trang trại nuôi tôm sang đầu vào của cùng một trang trại hoặc các trang trại khác đã là một vấn đề nan giải trong một thời gian dài. Với EMS / AHPND, đây hơn bao giờ hết là một điểm mà nông dân cần đặc biệt lưu ý. Để ngăn chặn sự lây lan thêm và gia tăng áp lực lây nhiễm trong môi trường xung quanh các khu vực nuôi tôm, chúng ta cần chủ trương xử lý nước và bùn ao phù hợp ngay cả khi vụ nuôi đã chết do bùng phát EMS.
Ngay cả khi môi trường của tôm được quản lý tối ưu, các vi khuẩn phổ biến như V. parahaemolyticus và V. harveyi vẫn có cơ hội gây bệnh cho tôm. Một vấn đề chính là trong nuôi thương phẩm, thức ăn chiếm một phần lớn trong chi phí vận hành. Áp lực về giá dẫn đến tiết kiệm nguyên liệu, dẫn đến thiếu hụt vitamin, nguyên tố oligo và các thành phần sinh học sẵn có. Đây là lý do tại sao khẩu phần ăn nuôi thương phẩm phải được bổ sung các chất dinh dưỡng, enzym và chất kích thích miễn dịch, cho phép tôm tăng cường các rào cản tự nhiên của chúng như lớp biểu bì, và tích lũy thêm năng lượng dự trữ và khả năng miễn dịch bẩm sinh để chống lại vi khuẩn xâm nhập.
Quan điểm
Cuộc khủng hoảng EMS đã và đang là một thách thức nghiêm trọng đối với ngành nuôi tôm và các ngành phụ trợ. Chúng tôi tin tưởng chắc chắn rằng hội nhập hơn nữa và quản lý trang trại chuyên nghiệp là cách thoát khỏi cuộc khủng hoảng này và hướng tới một tương lai bền vững.
Theo quan điểm của chúng tôi, vẫn chưa tồn tại một sản phẩm chữa bệnh kỳ diệu duy nhất có thể kiểm soát hoàn toàn V. parahaemolyticus. Vi khuẩn cơ hội với các gen độc lực có thể chuyển giao đã luôn và sẽ luôn tồn tại trong nuôi tôm. Việc sử dụng kháng sinh hoặc các quy trình khử trùng mà không có chế phẩm sinh học tái tạo ngay lập tức không phải là một chiến lược hợp lý. Tầm nhìn của chúng tôi là chỉ có một cách tiếp cận toàn diện, tối ưu hóa chất lượng môi trường và tôm post mới có thể quản lý thành công hệ vi sinh vật nuôi tôm và kiểm soát EMS.
Nguồn: https://www.globalseafood.org/advocate/a-holistic-management-approach-to-ems/
Tác giả: Tiến sĩ Mathias Corteel và Tiến sĩ Olivier Decamp
Biên dịch: T.L – Công ty TNHH PTTS Bình Minh
“Tôm Giống Gia Hóa – Chìa Khóa Thành Công”
Xem thêm:
- Tại Sao Phòng Thí Nghiệm Lại Quan Trọng Đối Với Người Nuôi Tôm Tại Indonesia?
- Cách Đơn Giản Để Nâng Cao Hiệu Quả Nuôi Tôm
- Ứng Dụng Của Sybiotics (Probiotics Và Prebiotics) Trong Việc Phát Triển Ngành Nuôi Trồng Thủy Sản