Đây là thông tin hiển thị trên website, KHÔNG dùng để quét mã QR. Vui lòng liên hệ 1900 86 68 69 nếu link QR dẫn đến trang web này.
Đây là thông tin hiển thị trên website, KHÔNG dùng để quét mã QR. Vui lòng liên hệ 1900 86 68 69 nếu link QR dẫn đến trang web này.

Kết quả cho thấy việc bổ sung khẩu phần ăn làm giảm đáng kể thời gian tiềm ẩn đến khi sinh sản

Nghiên cứu đã kiểm tra tác động của taurine (Tau) trong khẩu phần ăn lên quá trình trưởng thành của buồng trứng và phản ứng sinh lý của tôm mẹ P. vannamei. Kết quả cho thấy việc bổ sung 4–8 g Tau/kg vào khẩu phần ăn làm giảm đáng kể thời gian tiềm ẩn đến khi sinh sản và bằng cách điều chỉnh quá trình chuyển hóa lipid, khả năng chống oxy hóa và khả năng miễn dịch, Tau có thể cải thiện quá trình trưởng thành và tình trạng sức khỏe của tôm bố mẹ P. vannamei. Ảnh của Salma Achiri.

Nhu cầu dinh dưỡng của tôm bố mẹ họ Penaeid bao gồm mức protein trong khẩu phần ăn trong thức ăn được pha chế từ 45 đến 55%, thường được bổ sung bằng nhiều loại thức ăn tươi khác nhau. 10 loại axit amin được coi là thiết yếu (EAA) – bao gồm arginine, histidine, isoleucine, leucine, lysine, methionine, phenylalanine, threonine, tryptophan và valine. Các axit amin làm tăng sự phát triển trưởng thành của buồng trứng và tăng cường hiệu suất sinh sản bằng protein lòng đỏ, hormone polypeptide và quá trình tổng hợp enzyme. Tuy nhiên, thông tin liên quan đến các EAA khác, EAA bán thiết yếu hoặc có điều kiện như taurine đối với hiệu suất sinh sản của động vật giáp xác còn hạn chế.

Taurine là một loại axit amin thiết yếu có điều kiện đối với các loài thủy sản nuôi dựa trên giai đoạn sống, điều kiện nuôi, tình trạng sức khỏe, thành phần sinh hóa trong khẩu phần ăn và thành phần thức ăn của chúng. Các nghiên cứu trước đây trên nhiều loài giáp xác, bao gồm các loài tôm He, đã xác nhận rằng taurine có thể cải thiện sự tăng trưởng, hiệu quả thức ăn, khả năng chống oxy hóa, phản ứng miễn dịch, khả năng kháng bệnh và khả năng chịu đựng căng thẳng trong giai đoạn ấu trùng và hậu ấu trùng. Các nghiên cứu gần đây trên một số loài cá cho thấy việc bổ sung taurine vào khẩu phần ăn của chúng đã cải thiện đáng kể hiệu suất sinh sản như khả năng sinh sản, tỷ lệ thụ tinh và nở, chất lượng ấu trùng và tỷ lệ sống.

Bài viết này – tóm tắt từ ấn phẩm gốc (Mozanzadeh, MT và cộng sự 2024. Tác động của Taurine trong khẩu phần ăn lên chỉ số trưởng thành, khả năng chống oxy hóa, thành phần axit amin và axit béo của buồng trứng và mức độ phiên mã gen Vitellogenin ở tôm mẹ Penaeus vannamei. Tạp chí Dinh dưỡng nuôi trồng thủy sản Tập 2024, Mã bài viết 5532545) – trình bày kết quả nghiên cứu nhằm kiểm tra ảnh hưởng của taurine trong khẩu phần ăn lên một số yếu tố sinh sản và phản ứng sinh lý của tôm mẹ P. vannamei.

Thiết lập nghiên cứu

Tôm sắp trưởng thành được vận chuyển đến Phòng thí nghiệm nghiên cứu thủy sinh của Đại học Vịnh Ba Tư từ một ao nhà kính (Bushehr, Iran) và thích nghi trong hai tuần. Tổng cộng 180 tôm bố mẹ (29,4 ± 0,2 gam) được phân bổ vào các bể polyethylene tròn màu đen 18.250 lít. Mỗi bể chứa 5 con cái và 5 con đực (tỷ lệ 1:1).

200 lít nước biển được khử trùng bằng tia cực tím được cung cấp cho mỗi bể và được trang bị máy sưởi bể công suất 300 watt để ổn định nhiệt độ ở mức 28,9 ± 1,4℃. Nước được thay 80% mỗi ngày và chu kỳ quang hợp nhân tạo được sử dụng là 12 giờ sáng-12 giờ tối. Các loại thức ăn tươi thông thường như mực và giun huyết, có hàm lượng taurine cao, không được sử dụng. Các khẩu phần ăn thử nghiệm được cho ăn hai lần một ngày với 5% sinh khối của chúng trong thời gian thử nghiệm 30 ngày.

Đối với khẩu phần ăn thử nghiệm, một lượng Tau được phân loại từ 0 (đối chứng), 2, 4, 6, 8 và 10 g/kg được thêm vào sáu khẩu phần ăn isonitrogenous (497 g/kg protein) và isolipidic (140 g/kg lipid). Năng lượng trong khẩu phần ăn được xây dựng ở mức khoảng 19,0 MJ/kg.

Để biết thông tin chi tiết về thiết kế thí nghiệm, hệ thống nuôi và chăn nuôi; chuẩn bị khẩu phần ăn thử nghiệm; lấy mẫu, thu thập và phân tích dữ liệu, hãy tham khảo ấn phẩm gốc.

Kết quả và thảo luận

Phát hiện của chúng tôi chứng minh rằng sự tăng trưởng và tỷ lệ sống của tôm mẹ P. vannamei không bị ảnh hưởng bởi việc bổ sung taurine vào khẩu phần ăn, điều này cho thấy rằng trong quá trình trưởng thành, chất dinh dưỡng và năng lượng có thể được chuyển hướng đến quá trình sinh sản tuyến sinh dục và sinh giao tử thay vì quá trình tăng trưởng soma. Các nghiên cứu trước đây về P. vannamei cho thấy việc bổ sung taurine vào khẩu phần ăn với liều lượng 0,4–0,8 g/kg làm tăng trọng lượng và sử dụng protein trong giai đoạn nuôi thương phẩm. Và việc bổ sung taurine vào khẩu phần ăn với liều lượng 25 mg/kg làm tăng tỷ lệ sống và tỷ lệ lột xác ở P. vannamei trong giai đoạn ấu trùng.

Shi và cộng sự đã báo cáo rằng việc bổ sung khẩu phần ăn trong đó một lượng lớn bột cá được thay thế bằng protein Clostridium autoethanogenum và protein đậu nành cô đặc với 4 gam taurine trên kg đã làm tăng trưởng và sử dụng thức ăn ở P. vannamei. Và Mai và cộng sự đã chỉ ra rằng taurine trong khẩu phần ăn làm tăng phản ứng thích nghi của P. vannamei với điều kiện nuôi ở nhiệt độ thấp, với nhu cầu Tau trong khẩu phần ăn là 5,7–6,0 g/kg ở 28℃ và 5,6–6,6 g/kg ở 20℃ ở tôm con P. vannamei (1,59 ± 0,03 g). Do đó, dựa trên các nghiên cứu này, mức taurine tối ưu trong khẩu phần ăn là đặc trưng cho từng loài và ngay cả trong cùng một loài cũng có thể thay đổi do di truyền, giai đoạn sống, công thức thức ăn và các điều kiện thử nghiệm trong số các yếu tố khác.

Dinh dưỡng cho tôm bố mẹ có vai trò quan trọng trong việc sản xuất giao tử và tôm giống chất lượng cao. Các axit amin ở dạng tự do hoặc dạng peptide là chất dinh dưỡng quan trọng làm nguồn năng lượng, phân tử truyền tín hiệu và là tiền chất cho quá trình tổng hợp hợp chất hoạt tính sinh học trong quá trình phôi thai và phát triển ấu trùng sớm. Trong nghiên cứu của chúng tôi, tôm bố mẹ P. vannamei cái được cho ăn 4–8 gam taurine trên kg đã cho thấy tác dụng tích cực của taurine trong khẩu phần ăn bằng cách cải thiện tình trạng trưởng thành của chúng. Ngoài ra, những phát hiện của chúng tôi cho thấy rằng việc bổ sung taurine trong khẩu phần ăn góp phần vào quá trình dự trữ taurine trong buồng trứng và cải thiện quá trình trưởng thành về mặt sinh dục ở tôm mẹ. Những kết quả tương tự đã được báo cáo đối với một số loài cá nuôi, bao gồm cá đuôi vàng (Seriola quinqueradiata), cá rô phi sông Nile (Oreochromis niloticus) và những loài khác.

Taurine – bằng cách ức chế quá trình peroxy hóa lipid (sự phân hủy oxy hóa lipid), làm giảm apoptosis (chết tế bào theo chương trình) và bảo vệ ty thể tế bào khỏi quá trình oxy hóa – có thể làm tăng khả năng chống oxy hóa của động vật. Trong nghiên cứu hiện tại, việc bổ sung taurine vào khẩu phần ăn uống ở mức 10 g/kg đã làm tăng đáng kể hoạt động của một số enzyme quan trọng, cho thấy taurine có thể điều chỉnh khả năng phòng vệ chống oxy hóa ở tôm mẹ P. vannamei. Nhiều nhà nghiên cứu đã báo cáo kết quả tương tự đối với một số loài nuôi trồng thủy sản.

Tiêu hóa lipid trong ruột phụ thuộc vào nhiều loại enzyme và axit mật; taurine tham gia vào quá trình chuyển đổi axit mật thành muối mật và thúc đẩy sự hấp thụ lipid và các chất ưa béo, rất quan trọng đối với quá trình chuyển hóa lipid. Các nhà nghiên cứu đã báo cáo rằng thiếu taurine trong khẩu phần ăn, đặc biệt là trong khẩu phần ăn giàu protein thực vật, có thể dẫn đến hoạt động của enzyme tiêu hóa thấp và khả năng tiêu hóa chất dinh dưỡng thấp do lượng axit mật trong túi mật và ruột không đủ.

Trong nghiên cứu hiện tại, hoạt động của enzyme muối mật hoạt hóa (LIP) tăng đáng kể từ khi bổ sung 4–10 gam taurine trên kg vào khẩu phần ăn, cho thấy tác dụng tích cực của nó đối với quá trình chuyển hóa lipid ở tôm bố mẹ. Mai và cộng sự cũng báo cáo rằng việc bổ sung taurine vào khẩu phần ăn với liều lượng 2–8 gam trên kg đã cải thiện đáng kể hoạt động của các enzyme tiêu hóa, chẳng hạn như LIP ở nhiệt độ tối ưu (28℃) và thấp (20℃) và khả năng tiêu hóa protein cao hơn ở tôm thẻ con.

Tôm biển có khả năng hạn chế trong việc tổng hợp axit béo không bão hòa đa chuỗi dài omega-3 (LC-PUFA) từ tiền chất là axit alpha-linolenic; do đó, sự gia tăng PUFA trong buồng trứng tôm có thể là do các yếu tố khác. Trong nghiên cứu hiện tại, mức axit docosahexaenoic (DHA) tăng ở tôm được cho ăn khẩu phần ăn bổ sung taurine, đặc biệt là những khẩu phần ăn được cho ăn 10 gam taurine trên kg, cho thấy tác dụng tích cực của chất dinh dưỡng này đối với việc giữ lại và bảo quản DHA trong buồng trứng. Và taurine có thể cải thiện quá trình tiêu hóa và chuyển hóa lipid, như được chỉ ra bởi sự gia tăng hoạt động LIP phụ thuộc vào muối mật có thể tăng cường hấp thụ các vitamin tan trong chất béo (ví dụ: vitamin E) và do đó bảo quản DHA trong buồng trứng. Dựa trên dữ liệu của chúng tôi và kết quả từ các nhà nghiên cứu khác, Tau trong khẩu phần ăn có thể cải thiện hàm lượng axit béo của tuyến sinh dục bằng cách tạo ra những tác động tích cực đến trạng thái chống oxy hóa và chuyển hóa lipid.

Về các thông số sinh hóa hemolyp, dữ liệu của chúng tôi cho thấy tôm bố mẹ được cho ăn khẩu phần ăn bổ sung taurine có hàm lượng cholesterol toàn phần (CHOL) và lipoprotein tỷ trọng cao (HDL) trong hemolymp cao hơn, cho thấy sự gia tăng axit béo (FA) và huy động CHOL từ gan tụy đến buồng trứng đang trưởng thành. Có vẻ như việc bổ sung taurine trong khẩu phần ăn có thể làm tăng khả năng tổng hợp axit mật và hấp thụ CHOL của tôm bố mẹ. Ngoài ra, những kết quả này có liên quan đến việc tăng hoạt tính của enzyme LIP, giữ lại DHA và tăng cường phiên mã gen VIT gan tụy (vitellogenin, tiền chất của lòng đỏ trứng) trong khẩu phần ăn bổ sung taurine cho tôm bố mẹ.

Kết luận

Kết quả nghiên cứu cho thấy việc bổ sung 4–8 gam taurine cho mỗi kg thức ăn làm giảm đáng kể thời gian tiềm ẩn đến khi sinh sản ở tôm mẹ P. vannamei. Nồng độ DHA và Tau tăng lên trong buồng trứng khi mức taurine trong khẩu phần ăn tăng lên, trong khi tổng protein hemolymp, canxi, cholesterol và lipoprotein tỷ trọng cao tăng lên khi bổ sung 6–10 gam taurine cho mỗi kg thức ăn. Mức độ phiên mã của vitellogenin và một số enzyme được điều chỉnh tăng lên trong gan tụy của tôm bố mẹ được cho ăn 6–10 gam taurine cho mỗi kg thức ăn. Nhìn chung, có vẻ như taurine ở mức 4–8 gam cho mỗi kg thức ăn – bằng cách điều chỉnh quá trình chuyển hóa lipid, khả năng chống oxy hóa và khả năng miễn dịch – có thể cải thiện sự trưởng thành và tình trạng sức khỏe của tôm bố mẹ P. vannamei.

Theo Mansour Torfi Mozanzadeh

Nguồn: https://www.globalseafood.org/advocate/effects-of-dietary-taurine-on-maturation-and-health-status-of-female-pacific-white-shrimp-broodstock/

Biên dịch: Nguyễn Thị Quyên – Tôm Giống Gia Hóa Bình Minh

TÔM GIỐNG GIA HÓA – CHÌA KHÓA THÀNH CÔNG

Xem thêm:

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

You cannot copy content of this page