Các hệ thống canh tác lúa gạo ở Đồng bằng sông Cửu Long đã được chuyển đổi trong bốn thập kỷ qua. Sau năm 1975, chính phủ tập trung đầu tư vào thủy lợi và thâm canh lúa gạo, áp dụng rộng rãi hệ thống hai vụ và ba vụ. Diện tích trồng lúa tăng từ 2 triệu ha (cuối những năm 1970) lên 4,3 triệu ha (2016). Năng suất lúa mùa mưa tăng từ 2 tấn/ha (1975) lên 5,3 tấn/ha (2016). Sản lượng lúa tăng từ 4 triệu tấn (1975) lên 24,2 triệu tấn (2016), nhờ vào việc mở rộng diện tích và tăng năng suất. Việt Nam chuyển đổi từ nước nhập khẩu ròng gạo thành nước xuất khẩu 4,5 triệu tấn gạo (2 tỷ USD) vào năm 2016, chủ yếu từ Đồng bằng sông Cửu Long. Tuy nhiên, thâm canh lúa gạo ảnh hưởng tiêu cực đến sinh kế nông dân và môi trường. Nông dân buộc trồng lúa chất lượng thấp để xuất khẩu nhưng lợi nhuận thấp. Sử dụng phân bón, thuốc trừ sâu gây ô nhiễm đất, nước, giảm nguồn cung cấp thực phẩm tự nhiên. Hơn nữa, “Quản lý tổng thể” thủy văn ảnh hưởng đến dòng nước, bồi lắng, sinh vật thủy sinh, sử dụng đất. Để ứng phó, chính phủ nới lỏng các hạn chế đối với việc sử dụng đất trồng lúa và các hệ thống canh tác đa dạng hơn, với việc tăng cường sử dụng đất lúa để trồng các loại cây trồng ngoài lúa, vườn cây ăn quả và nuôi trồng thủy sản nước ngọt và nước lợ. Chính sách hiện nay thúc đẩy sản xuất lúa gạo chất lượng cao, giảm diện tích trồng lúa, đa dạng hóa hệ thống canh tác và thúc đẩy nông nghiệp sinh thái và nông nghiệp hữu cơ.
Giới thiệu
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) chiếm 15% diện tích hạ lưu sông Mê Kông, 27% diện tích lúa nhưng sản xuất 48% tổng sản lượng lúa lưu vực và 60% lượng gạo xuất khẩu (Hình 17.1). Nơi đây được ví như “vựa lúa tràn” của khu vực. Phần lớn vùng đồng bằng bị ngập lụt tự nhiên vào mùa mưa. Hệ thống thủy lợi lớn cho phép thâm canh lúa quanh năm. Mực nước biển dâng cao đang đe dọa sản xuất lúa. Chương này phân tích xu hướng hệ thống canh tác lúa gạo ở ĐBSCL và giới thiệu các nghiên cứu thực địa ở An Giang và Hậu Giang (chương tiếp theo). Những nghiên cứu này xem xét chuỗi giá trị gạo trong nước từ nhà cung cấp đầu vào đến người tiêu dùng (Chương 18) và thương mại xuyên biên giới từ Campuchia (Chương 19). Chương 20 xem xét thương mại gạo nếp xuyên biên giới chuyên biệt hơn giữa tỉnh Savannakhet ở miền Trung Lào và tỉnh Quảng Trị ở vùng duyên hải Bắc Trung Bộ của Việt Nam (do đó bổ sung cho phân tích về tiếp thị gạo ở Savannakhet ở Chương 9).
Hình 17.1 Đồng bằng sông Cửu Long hiển thị các tỉnh và vùng sinh thái nông nghiệp. (Nguồn: Bản đồ cơ sở của CartoGIS Services, Trường Cao đẳng Châu Á và Thái Bình Dương, Đại học Quốc gia Úc)
Địa lý Đồng bằng sông Cửu Long
Là một đơn vị địa lý, Đồng bằng sông Cửu Long có hình dạng tam giác với diện tích gần 50.000 km2 chủ yếu là phù sa và trầm tích biển màu mỡ kéo dài từ Phnom Penh ở đông nam Campuchia qua miền nam Việt Nam đến Biển Đông và Vịnh Thái Lan. 78% diện tích (khoảng 39.000 km2) thuộc Việt Nam. Chúng tôi sử dụng thuật ngữ “Đồng bằng sông Cửu Long” trong chương này để chỉ phần đồng bằng của Việt Nam. Trong phần này, hệ thống kênh rạch hình thành trong hai thế kỷ qua, phục vụ giao thông, tưới tiêu và thoát nước, phát triển mạnh mẽ dưới thời Pháp thuộc (1910-1930) và sau chiến tranh Đông Dương (1975). Hiện nay, ĐBSCL có hơn 10.000 km kênh rạch và 20.000 km đê điều, làm thay đổi sâu sắc chế độ thủy văn và hệ sinh thái nông nghiệp của khu vực. Hiện nay khoảng 90% diện tích đất trồng trọt đã được tưới tiêu.
Khí hậu của Đồng bằng sông Cửu Long tương tự như khí hậu của toàn vùng Hạ lưu sông Mê Kông – khí hậu nhiệt đới gió mùa với mùa mưa và mùa khô rõ rệt (Hình 17.2). Mùa mưa diễn ra từ tháng 6 đến tháng 10, khi lượng mưa trung bình hàng tháng trên 200 mm và mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4. Sự thay đổi nhiệt độ kết hợp với tính chất mùa vụ của lượng mưa tạo ra ba mùa trồng lúa: (1) mùa mưa mát hơn từ tháng 7 đến tháng 10 (vụ chính hay “vụ mùa thu”); (2) mùa khô mát hơn, muộn hơn/đầu khô từ tháng 11 đến tháng 2 (“vụ đông”); và (3) mùa nóng, đầu mùa mưa từ tháng 3 đến tháng 6 (“vụ xuân”).
Hình 17.2 Lượng mưa và nhiệt độ trung bình tháng tại Cần Thơ. (Nguồn: Đơn vị nghiên cứu khí hậu, Đại học East Anglia)
Lũ lụt trong mùa mưa là hạn chế chủ yếu ở vùng thượng nguồn đồng bằng, với độ sâu lũ hơn 4 mét, trong khi xâm nhập mặn vào mùa khô là yếu tố chính ảnh hưởng đến việc sử dụng đất ở vùng hạ lưu đồng bằng, hạn chế sản xuất lúa gạo chỉ một vụ mỗi năm. Đất phù sa màu mỡ chiếm khoảng 30% diện tích, dọc theo bờ sông Mê Kông và sông Hậu, nhưng đất phèn xuất hiện trên 40% diện tích, phân bố ở các vùng trũng rộng, chịu ảnh hưởng xâm nhập mặn. Đồng bằng bao gồm sáu vùng sinh thái nông nghiệp riêng biệt với các tiềm năng khác nhau cho các hệ thống canh tác lúa gạo (Nguyen, DC và cộng sự 2007; Biggs 2015; Biggs và cộng sự 2009; Hình 17.1):
- Vùng đồng bằng ngập lũ là vùng nước ngọt dọc sông Mê Kông và sông Hậu (Hậu Giang), có diện tích khoảng 900.000 ha. Hệ thống sông, kênh, rạch chằng chịt, chịu ảnh hưởng bởi thủy triều ở vùng trung lưu. Vùng này có đất phù sa màu mỡ, nông dân thâm canh lúa hai hoặc ba vụ mỗi năm, nhiều hộ gia đình đã đa dạng hóa sang vườn cây ăn trái, rau màu và nuôi trồng lúa-cá kết hợp.
- Các vùng trũng lớn nằm cách xa các sông chính. Đồng bằng Tháp Mười ở phía Bắc có diện tích khoảng 500.000 ha, là vùng thấp nhất của đồng bằng với độ sâu trung bình 0,5 mét dưới mực nước biển. Vùng này ngập lụt vào mùa mưa và có đất phèn. Nông dân thường trồng lúa nước sâu ở vùng này nhưng các biện pháp kiểm soát lũ hiện nay cho phép thâm canh lúa và lúa kết hợp với nuôi trồng thủy sản nước ngọt.
- Tương tự, vùng Tứ giác Long Xuyên có diện tích 400.000 ha, ngập lụt vào mùa mưa và đất phèn. Đây cũng là khu vực trồng lúa nước sâu truyền thống, nhưng kể từ năm 2000, đầu tư vào kiểm soát lũ lụt và thủy lợi đã cho phép sản xuất lúa thâm canh cũng như nuôi trồng thủy sản lúa-cá.
- Vùng trũng xuyên sông Hậu nằm ở phía Tây sông Hậu và có diện tích khoảng 600.000 ha. Vùng này còn có đất phèn nhưng không bị ảnh hưởng nặng nề bởi lũ lụt, xâm nhập mặn, tạo điều kiện tốt cho thâm canh lúa và các loại cây trồng khác.
- Bán đảo Cà Mau có diện tích khoảng 800.000 ha ở phần cực nam của Đồng bằng nơi Đồng bằng đang phát triển tích cực nhờ sự lắng đọng trầm tích. Vùng này bị xâm nhập mặn vào mùa khô, hạn chế sản xuất lúa gạo chỉ trong một vụ mùa mưa. Phần lớn diện tích này được phát triển để nuôi tôm.
- Khu phức hợp ven biển bao gồm khoảng 600.000 ha đồng bằng ven biển và các dải cát, phần lớn trong số đó bị xâm nhập mặn, mặc dù các tuyến đê ven biển đã làm thay đổi chế độ thủy văn. Cùng với bán đảo Cà Mau, đây là vùng trọng điểm phát triển nuôi tôm nước lợ.
Khoảng 17,5 triệu người sinh sống tại Đồng bằng sông Cửu Long, chiếm 1/5 dân số Việt Nam. Cư dân đa dạng với các dân tộc Kinh (90%), Khmer (6%), Hoa (2%) và Chăm (2%). Tốc độ tăng dân số thấp, chỉ 0,3–0,5% do hiện tượng di cư (CGIAR 2016). Lúa gạo đóng vai trò then chốt trong đời sống của người dân, là nguồn sinh kế chính cho hàng triệu hộ nông dân nhỏ, cung cấp lương thực chính và thu nhập chủ yếu cho người dân khu vực. Năm 2016, diện tích trồng lúa cả nước đạt 3,8 triệu ha, sản lượng 40 triệu tấn lúa chưa bóc vỏ. Đồng bằng sông Cửu Long đóng góp 50% sản lượng này. Việt Nam xuất khẩu 4,5 triệu tấn gạo trị giá 2 tỷ USD trong năm 2016, 90% xuất phát từ Đồng. Diện tích trồng và năng suất lúa đã tăng lên trong 20–30 năm qua do hệ thống thủy lợi và kiểm soát lũ lụt được cải thiện và do nông dân áp dụng các giống năng suất cao (HYV), tăng cường sử dụng phân bón và cơ giới hóa quy mô nhỏ. Ở nhiều nơi ở vùng đồng bằng, nông dân hiện nay trồng ba vụ lúa mỗi năm.
Tuy nhiên, nông dân trồng lúa thường có thu nhập bấp bênh do ảnh hưởng của giá cả thị trường và biến đổi khí hậu. Việc sử dụng quá nhiều phân bón, thuốc trừ sâu và khai thác nước ngầm ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường, gây ô nhiễm nguồn nước và đất đai. Đa dạng hóa hệ thống canh tác hiện được cả nông dân và chính phủ coi là một cách để giải quyết những thách thức này. Năm 2000, chính phủ ban hành chính sách khuyến khích nông dân đa dạng hóa sản xuất. Nông dân tích cực áp dụng trồng xen canh các loại cây khác như ngô, rau, dưa hấu vào mùa khô trên đất lúa cũng như kết hợp trồng lúa với nuôi trồng thủy sản. Cây ăn quả cũng được trồng rộng rãi trên các vùng cao được bảo vệ khỏi lũ lụt (Nguyen, DC và cộng sự 2007). Chương này sẽ đánh giá hiệu quả của việc thâm canh và tăng trưởng sản xuất lúa gạo cũng như sự phát triển của các hệ thống canh tác lúa đa dạng hơn.
Hồ sơ hộ gia đình nông thôn
Dựa trên khảo sát hộ gia đình giữa những năm 2000, Bảng 17.1 vẽ nên bức tranh tổng thể về sinh kế nông thôn ở các vùng sinh thái nông nghiệp khác nhau của Đồng bằng sông Cửu Long (Nguyen, DC và cộng sự 2007). Một số đặc điểm chính của hộ gia đình trung bình ở mỗi vùng được trình bày trong Bảng 17.1. Quy mô trang trại trung bình nhỏ, dao động từ 1,4 ha (vùng đồng bằng ngập nước) đến 2,5 ha (vùng ven biển). Hộ gia đình trung bình có 5 thành viên, trong đó 2-4 thành viên trong độ tuổi lao động. Tỷ lệ lao động phi nông nghiệp cao nhất ở vùng đồng bằng ngập nước (20%), thấp nhất ở các vùng khác (<10%). Tỷ lệ tham gia công việc phi nông nghiệp cao, dao động từ 45% (Đồng Tháp Mười) đến hơn 70% (Tứ giác Long Xuyên). Trình độ học vấn của chủ hộ tương đương nhau, đa số hoàn thành THCS Hầu hết chủ hộ là nam giới, nhưng 16% hộ gia đình vùng đồng bằng ngập lũ do phụ nữ làm chủ hộ. Việc sở hữu các thiết bị chính khác nhau giữa các vùng tùy thuộc vào sự thay đổi trong sinh kế. Máy bơm thiết yếu cho hầu hết các hộ (75-90%), ngoại trừ bán đảo Cà Mau (ít phụ thuộc vào thủy lợi). Tương tự như vậy, thuyền cần thiết ở những vùng lũ lụt (vùng trũng sâu và Khu liên hợp ven biển). Máy phun phổ biến ở vùng trồng lúa (60-70%), ít phổ biến ở vùng nuôi tôm ven biển. Tỷ lệ sử dụng tín dụng dao động từ 40% (vùng đồng bằng ngập lũ) đến 90% (bán đảo Cà Mau).
Bảng 17.1 Đặc điểm hộ gia đình vùng ĐBSCL theo vùng sinh thái nông nghiệp, 2005
Nguồn: Nguyen, DC và cộng sự. ( 2007)
Hình 17.3 mô tả cách thức sử dụng đất khác nhau của các hộ gia đình ở Đồng bằng sông Cửu Long. Đất lúa là loại hình sử dụng đất phổ biến nhất, chiếm 1,0 – 1,5 ha/hộ, tập trung ở vùng đồng bằng ngập lũ và các vùng trũng xung quanh. Vườn cây ăn trái cũng đóng vai trò quan trọng, với diện tích trung bình 0,2 – 0,3 ha/hộ, phổ biến ở các khu vực này. Tuy nhiên, trang trại nuôi tôm và cá là hình thức sử dụng đất chủ yếu ở Khu liên hợp ven biển và bán đảo Cà Mau, với diện tích trung bình là 2,0–2,4 ha.
Hình 17.3 Diện tích trang trại trung bình ở Đồng bằng sông Cửu Long theo loại hình sử dụng đất và vùng sinh thái nông nghiệp, 2005. (Nguồn: Trích từ số liệu của Nguyen, DC et al. (2007)
Bảng 17.2 cho thấy mối liên hệ giữa mô hình sử dụng đất và thu nhập của các hộ gia đình ở Đồng bằng sông Cửu Long. Nông dân ở vùng đồng bằng ngập nước phù sa và các vùng trũng lân cận (Đồng Tháp Mười và Tứ giác Long Xuyên) thu được 80–90% thu nhập trang trại của họ từ lúa và hoa màu, kiếm được 1300–1500 USD vào năm 2005. Ngược lại, nông dân ở Khu liên hợp ven biển kiếm được 85–90% thu nhập của trang trại từ tôm và cá, với nông dân ven biển trung bình kiếm được 1.700 USD từ nguồn này. Thu nhập phi nông nghiệp đóng vai trò quan trọng hơn đối với các hộ gia đình ở vùng đồng bằng ngập lũ, cho thấy sự đa dạng hóa sinh kế lớn hơn ở khu vực đông dân cư và dễ tiếp cận hơn này. Nhìn chung, những nông dân này và những người ở Khu liên hợp ven biển có thu nhập bình quân hộ gia đình cao nhất (2100–2300 USD) và bình quân đầu người (420–470 USD). Người dân ở bán đảo Cà Mau có mức thu nhập thấp nhất, với thu nhập bình quân bằng khoảng một nửa so với những vùng khác.
Bảng 17.2 Thu nhập trung bình của hộ gia đình theo nguồn và vùng sinh thái nông nghiệp, 2005 (USD/năm)
Nguồn: Nguyen, D.C. và cộng sự. (2007)
Thâm canh lúa gạo
Nông dân Khmer trồng lúa ở vùng đồng bằng được khoảng 2000 năm (Chương 1). Bắt đầu từ thế kỷ 18, dưới triều Nguyễn mở rộng, người Việt Nam bắt đầu di cư đến Đồng bằng sông Cửu Long và mở rộng diện tích trồng lúa (Xuan và Matsui 1998; Le Coq et al. 2001). Nông dân thường định cư dọc theo đê sông, ven biển và trên các cồn cát. Trang trại điển hình bao gồm một trang trại (thường là nuôi gia súc), ao hồ (được sử dụng để nuôi trồng thủy sản hoặc làm nơi trú ẩn cho cá tự nhiên và để sử dụng nước sinh hoạt), đê, vườn trồng cây, hoa màu và ruộng lúa để trồng lúa (đôi khi kết hợp với cá hoặc nuôi tôm) (Xuan và Matsui 1998). Trong một số hệ thống, nông dân đào mương làm nơi trú ẩn cho cá tự nhiên và làm luống cao cạnh để trồng cây hàng năm như mía (Nguyen, HC 1994).
Trong thế kỷ 18 và 19, vùng đồng bằng ngập lũ trồng lúa địa phương vào mùa mưa, sử dụng các giống lúa nổi hoặc lúa nước sâu ở các vùng ngập sâu như Đồng Tháp Mười và Tứ giác Long Xuyên (Le Coq et al. 2001; Biggs et al. 2009). Sau khi thu hoạch lúa nổi vào tháng 12, nông dân trồng các loại cây trồng ngoài đồng như đậu xanh, khoai lang và ngô, thu hoạch vào tháng 2 hoặc tháng 3 (Xuan và Matsui 1998; Nguyen, HC 1994). Hầu hết các vùng đồng bằng sử dụng các giống truyền thống, nhạy cảm với ánh sáng (Nguyen, HC 1994; Xuân và Matsui 1998). Các giống chín sớm được trồng ở Khu liên hợp ven biển để cho phép thu hoạch trước tháng 11 khi nước mặn xâm nhập vào ruộng lúa. Các giống trưởng thành trung bình được trồng ở vùng đồng bằng phù sa bị ảnh hưởng bởi thủy triều (mực nước khó kiểm soát). Các giống chín muộn được trồng ở vùng trũng có nguy cơ bị ngập lụt. Lúa nổi hoặc lúa nước sâu chủ yếu được trồng ở các vùng trũng, nơi không thể tránh khỏi lũ lụt vào mùa mưa—Đồng Tháp Mười và Tứ giác Long Xuyên (Nguyen, HC, 1994; Nguyen và Howie 2018).
Sự phát triển của ĐBSCL đối với các hệ thống canh tác lúa gạo có thể được chia thành ba giai đoạn: (1) thích ứng với các điều kiện hiện tại, (2) bán kiểm soát và (3) kiểm soát toàn diện (Le Coq et al. 2001; Kakonen 2008; Biggs và cộng sự 2009; Trong 200 năm đầu định cư của nông dân Kinh, có rất ít hoặc không có cơ sở hạ tầng phục vụ trồng lúa, ngoại trừ các kênh mương mà nông dân xây dựng. Nông dân chỉ trồng một vụ lúa mỗi năm khi có điều kiện phù hợp, dù là lúa mùa mưa truyền thống hay lúa nổi. Họ cũng thu hoạch cá tự nhiên trên ruộng lúa vào mùa mưa và trồng rau vào mùa khô (Vo 1975; Nguyen, HC 1993).
Sự phát triển mạnh mẽ của cơ sở hạ tầng thủy lợi từ giữa những năm 1970 đã mở ra cánh cửa cho thâm canh sản xuất lúa gạo tại Đồng bằng sông Cửu Long (Le Coq et al., 2001; Kakonen, 2008; Biggs et al., 2009 Vùng đất cao duy trì canh tác một vụ lúa địa phương vào mùa mưa. Vùng Đồng bằng áp dụng giống lúa hiện đại cho một hoặc hai vụ lúa. Việc xây dựng đê thấp và hệ thống thủy lợi tại đây đã tạo điều kiện cho việc thâm canh. Nhiều nông dân sử dụng máy bơm dòng chảy dọc trục (hay “đuôi tôm”) được phát triển tại địa phương để tiếp cận nguồn nước tưới (Nguyen, VK et al., 2016; Biggs et al., 2009).
Từ năm 1996, chính phủ Việt Nam đã đẩy mạnh đầu tư vào việc nâng cấp đê và mở rộng hệ thống kênh mương nội đồng (Yasuyuki, 2001; Biggs et al., 2009; Nguyen, VK et al., 2016). Nhờ vậy, việc trồng lúa ba vụ trở nên phổ biến trên diện rộng. Ví dụ, nông dân ở huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang đã bắt đầu canh tác ba vụ vào cuối những năm 1990 (Berg và cộng sự 2017). Các tỉnh An Giang và Đồng Tháp cũng triển khai đắp đê để trồng ba vụ và đạt được những thành tựu to lớn nhất sau năm 2000 (Nguyen et al., 2016). Chính phủ trung ương đã trực tiếp hỗ trợ tài chính cho các tỉnh, huyện và xã để xây dựng đê điều, qua đó mở rộng diện tích trồng ba vụ, kể cả ở những khu vực thường xuyên bị ngập lụt trong mùa mưa. Diện tích đất được tưới tiêu tăng từ 52% (năm 1990) lên 91% (năm 2002) so với tổng diện tích Đồng bằng sông Cửu Long (CGIAR, 2016).
Nhờ hệ thống thủy lợi được mở rộng và áp dụng kỹ thuật canh tác tiên tiến, diện tích trồng lúa ở Đồng bằng sông Cửu Long đã tăng đáng kể từ 3,2 triệu ha (năm 1995) lên 4,3 triệu ha (năm 2016), với tốc độ tăng trưởng trung bình 1,4% mỗi năm (Hình 17. Sự gia tăng này chủ yếu đến từ vụ mùa mưa (mùa thu), tỷ trọng diện tích tăng từ 44% lên 55%. Nông dân có xu hướng chuyển đổi từ vụ đông mùa khô sang vụ lúa xuân sử dụng giống lúa lai năng suất cao (HYV). Vụ đông giảm xuống còn 8% tổng diện tích trong khi vụ xuân tăng từ 32% lên 36%, với mức tăng chủ yếu xảy ra trong giai đoạn 1995-2000. Nông dân chuyển từ lúa mùa sang các loại cây trồng mùa khô khác như ngô, khoai lang, sắn, rau màu hoặc bỏ hoang trong mùa này. Ở vùng ven biển, nông dân chuyển sang nuôi tôm nước lợ vào mùa khô.
Hình 17.4 Diện tích gieo trồng lúa ở Đồng bằng sông Cửu Long theo mùa vụ 1995–2016. (Nguồn: Tổng cục Thống kê 2016)
Tổng sản lượng lúa đã tăng gấp đôi từ 12,8 triệu tấn năm 1995 lên 24,2 triệu tấn năm 2016, tăng 3,2% hàng năm (Hình 17.5). Sản lượng tăng gần bằng nhau do tăng diện tích trồng và tăng năng suất. Năng suất của vụ thu chính tăng từ 3,8 tấn/ha lên 5,3 tấn/ha, vụ xuân từ 5,2 tấn/ha lên gần 7,0 tấn/ha và vụ đông từ 2,9 tấn/ha lên 4,3 t/ha (Hình 17.5). Năng suất tăng trong tất cả các mùa là do quản lý nước tốt hơn, sử dụng HYV và sử dụng phân bón nhiều hơn.
Hình 17.5 Sản lượng lúa theo mùa và tổng sản lượng lúa ở Đồng bằng sông Cửu Long, 1995–2016. (Nguồn: Tổng cục Thống kê 2016)
Mặc dù diện tích, năng suất và sản lượng lúa gạo tại Đồng bằng sông Cửu Long đều ghi nhận mức tăng trưởng ấn tượng, ngành lúa gạo khu vực này vẫn đang phải đối mặt với một số thách thức đáng kể (Nguyen, DC 2011). Trọng tâm là sản xuất gạo năng suất cao nhưng chất lượng thấp, giá thành lúa tại trang trại thấp, đặc biệt đối với sản phẩm xuất khẩu (Demont và Rutsaert 2017). Mặc dù năng suất tăng nhờ sử dụng nhiều đầu vào hơn, lợi nhuận ròng của người trồng lúa vẫn ở mức thấp (Berg và cộng sự 2017). Lượng phân bón sử dụng đã tăng mạnh từ 40 kg/ha (1976-1981) lên 120 kg/ha (1987-1988) và vượt quá 600 kg/ha vào năm 2015 (Nguyen et al. 2018). Việc sử dụng thuốc trừ sâu đã tăng từ 3 đến 6 lần từ năm 2000 đến năm 2015. Chi phí của những đầu vào này cũng tăng lên, làm tăng thêm áp lực chi phí mà nông dân đang phải đối mặt.
Bên cạnh những thành tựu ấn tượng về năng suất và sản lượng, sản xuất lúa gạo ở Đồng bằng sông Cửu Long cũng đang phải đối mặt với nhiều vấn đề môi trường nghiêm trọng. Ô nhiễm môi trường đất và nước do thâm canh lúa trong thời gian dài và lạm dụng hóa chất nông nghiệp (Nguyen, DC et al., 2015; Berg et al., 2017) và giảm nguồn cung cấp cá tự nhiên (Nguyen và cộng sự 2018). Hơn nữa, Đồng bằng sông Cửu Long rất dễ bị tổn thương trước tác động của biến đổi khí hậu, bao gồm mực nước biển dâng, lũ lụt gia tăng và xâm nhập mặn, đặc biệt ở Khu liên hợp ven biển và bán đảo Cà Mau (Dasgupta et al. 2007; Phạm và Furukawa 2007; Bộ TNMT 2009). Bằng chứng gần đây cho thấy xâm nhập mặn đang có tác động tiêu cực đến cả hệ thống trồng lúa và lúa-tôm (Mainuddin và cộng sự 2011 , 2013; Ling và cộng sự 2015; Thủy và Anh 2015; USAID 2016; Leigh và cộng sự 2017; Stewart- Koster và cộng sự 2017).
Theo Nguyen Van Kien, Nguyen Hoang Han & Rob Cramb
Nguồn: https://link.springer.com/chapter/10.1007/978-981-15-0998-8_17#Sec1
Biên dịch: Nguyễn Thị Quyên – Tôm Giống Gia Hóa Bình Minh
TÔM GIỐNG GIA HÓA – CHÌA KHÓA THÀNH CÔNG
Xem thêm:
- “MÀU NƯỚC LÀ MÀU TIỀN”
- Tốc độ luân chuyển trao đổi chất, hoạt động của enzyme tiêu hóa và quần thể vi khuẩn ở tôm thẻ chân trắng Litopenaeus vannamei trong điều kiện tăng trưởng bù
- Một Tập Hợp Bộ Gen Cấp Độ Nhiễm Sắc Thể Mới Của Tôm Thẻ Chân Trắng