Tóm tắt

Nhu cầu hiểu biết hành vi của các loài thuỷ sản quan trọng ngày càng được nhiều sự công nhận là cần thiết. Nó  tạo điều kiện thuận lợi trong  sản xuất, tuy nhiên lĩnh vực này cho đến nay chưa được chú trọng. Ví dụ, tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei) là loài được nuôi nhiều nhất trong nuôi trồng thủy sản giáp xác trên toàn cầu, tuy nhiên có rất ít nghiên cứu đã đề cập chi tiết đến hành vi kiếm ăn. Mục tiêu của nghiên cứu này là đánh giá hành vi kiếm ăn của tôm thẻ chân trắng để đối phó với tình trạng nhịn ăn và lột xác. 24 con tôm con (10,51 ± 2,17 g) được chia thành 3 điều kiện nhịn ăn khác nhau (+0 (đối chứng), +24 giờ hoặc +48 giờ; n = 8 mỗi nghiệm thức). Tôm trong tất cả các nghiệm thức được cung cấp lượng thức ăn cuối cùng vào lúc 19:00 và sau đó cho nhịn ăn 14 giờ. Những con trong nhóm đối chứng được ghi nhận hành vi vào lúc 09:00 ngày hôm sau và không bị bỏ đói thêm (+0 giờ), trong khi các nghiệm thức khác cho nhịn ăn thêm một (nghiệm thức +24 giờ) hoặc hai (nghiệm thức +48 h) ngày. Tình trạng lột xác được theo dõi liên tục khi nó thay đổi ở tất cả các con trong suốt quá trình thí nghiệm. Tôm sau khi cho ăn thức ăn được quan sát riêng lẻ qua video trong các khu vực thử nghiệm trong 20 phút. Các hành vi của chúng được ghi nhận lại (ví dụ: không hoạt động, phát hiện, kiếm ăn, tìm kiếm thức ăn). Mỗi con tôm được quan sát 5 lần trong các ngày khác nhau, với 3 ngày cách biệt giữa các lần ghi để thu thập thông tin của từng cá thể và sự biến đổi giữa các cá thể với nhau. Tôm nhịn ăn trong +24 giờ và +48 giờ cho thấy hoạt động kiếm ăn tăng đáng kể so với nhóm đối chứng. Tôm bị nhịn ăn trong +48 giờ có hoạt động tìm kiếm thức ăn cao hơn, có mối tương quan tích cực với hoạt động kiếm ăn. Tôm trong giai đoạn lột xác cho thấy hoạt động kiếm ăn tăng lên và hoạt động tìm kiếm thức ăn cao hơn. Thời gian nhịn ăn lâu hơn đã giảm sự thay đổi trong và giữa các cá thể trong phần lớn các hành vi được đo lường. Kết quả của nghiên cứu này nhấn mạnh sự liên quan của tình trạng nhịn ăn và lột xác trong các thử nghiệm dinh dưỡng và cung cấp thông tin cơ bản quan trọng để phát triển việc sử dụng hành vi nhằm cải thiện sản xuất tôm thẻ chân trắng.

1. Giới thiệu

Nghiên cứu hành vi của động vật trong sản xuất nuôi trồng thủy sản có khả năng cung cấp các chỉ số chính xác để đánh giá phúc lợi (Martins và cộng sự, 2012), đánh giá kỹ thuật chăn nuôi (Almazán-Rueda và cộng sự, 2004) và các hướng dẫn quản lý thức ăn chăn nuôi (Andrew và cộng sự, 2002; Noble và cộng sự, 2007; Sánchez và cộng sự, 2009). Các hành vi có thể hữu ích trong việc đưa ra một dấu hiệu nhanh chóng và không xâm lấn về những thay đổi trong môi trường (Hazlett, 1995; Sih và cộng sự, 2004; Dingemanse và cộng sự, 2010). Tuy nhiên, hầu hết những tiến bộ trong nuôi trồng thủy sản ở khu vực này đã được áp dụng cho sản xuất cá vây với ít nghiên cứu được thực hiện trong các ngành nuôi trồng thủy sản khác, chẳng hạn như sản xuất tôm.

Việc hiểu về hành vi của các loài tôm nuôi trong ngành thủy sản tôm có khả năng giúp cải thiện việc cho ăn, là một trong những lợi ích tiềm năng trong ngành nuôi tôm. (Bardera và cộng sự, 2018). Một số nghiên cứu đã ghi nhận một loạt trường hợp kiếm ăn không hiệu quả liên quan đến sản xuất tôm (ví dụ: Davis và cộng sự, 2006; Smith và Tabrett, 2013), một phần là do tôm chậm kiếm ăn (Ullman và cộng sự, 2019). Đối với tôm He, việc tìm kiếm, phát hiện và bắt mồi được điều khiển bởi các bộ thụ cảm hóa học khác nhau (Steiner và Harpaz, 1987; Derby và Sorensen, 2008), và một loạt các hành vi đã được quan sát thấy để nhận biết thức ăn và kích thích kiếm ăn (Lee và Meyers, 1996). Khi thức ăn được cung cấp, tôm sẽ thay đổi hành vi bằng cách tăng tần suất các hành vi liên quan đến tìm kiếm, chẳng hạn như thăm dò và bò. Điều này phù hợp với việc giảm tần suất của các hành vi không liên quan, chẳng hạn như không hoạt động, làm sạch và đào hang (Pontes và Arruda, 2005; Silva và cộng sự, 2012).

Sự thay đổi về mức độ đói và nhịn ăn có khả năng ảnh hưởng đến hành vi cho tôm ăn và ảnh hưởng đến sự tìm kiếm thức ăn (Costero và Meyers, 1993). Thông thường, trong các nghiên cứu dinh dưỡng trong đó các loại thức ăn hoặc thành phần thức ăn khác nhau được thử nghiệm để xác định sở thích hoặc độ hấp dẫn của thức ăn, động vật giáp xác bị nhịn ăn trong khoảng thời gian 18-24 giờ trước khi thử nghiệm (ví dụ: Holland và Borski, 1993; Sanchez và cộng sự, 2005; Nunes và cộng sự, 2006; Derby và cộng sự, 2016). Tuy nhiên, hoạt động kiếm ăn của động vật giáp xác và phản ứng hành vi có thể thay đổi theo thời gian nhịn ăn và sau đó ảnh hưởng đến kết quả thu được (Lee và Meyers, 1997; Sanchez và cộng sự, 2005). Nhịn ăn đã được nghiên cứu ở một số loài tôm He (ví dụ Cuzon và cộng sự, 1980; Chandumpai và cộng sự, 1991; Rosas và cộng sự, 1995; Stuck và cộng sự, 1996; Comoglio và cộng sự, 2004), nhưng tập trung vào các hiệu ứng sinh lý và sinh hóa. Theo hiểu biết của chúng tôi, chưa có nghiên cứu ảnh hưởng của việc nhịn ăn đối với hành vi của tôm.

Tình trạng lột xác cũng có khả năng ảnh hưởng đến hành vi ăn của tôm (Dall và cộng sự, 1990). Lột xác có thể có ảnh hưởng đáng kể đến hoạt động tổng thể (ví dụ như bò và bơi) nhưng đặc biệt quan trọng trong việc kiếm ăn (Chan và cộng sự, 1988). Tôm He ức chế hoạt động kiếm ăn ngay trước và sau khi lột xác (Dall, 1986; Harpaz và cộng sự, 1987; Chan và cộng sự, 1988; Dall và cộng sự, 1990; Vega-Villasante và cộng sự, 2000) và có thể hiển thị độ nhạy cảm khác nhau đối với các yếu tố gây căng thẳng tùy thuộc vào giai đoạn lột xác (Wajsbrot và cộng sự, 1990).

Do đó, nhịn ăn và lột xác có thể ảnh hưởng đến hành vi tổng thể (Costero và Meyers, 1993; Healses và cộng sự, 1996) và có khả năng góp phần vào sự thay đổi của từng con trong hành vi kiếm ăn. Sự thay đổi về độ dẻo hành vi giữa và trong các tôm từ cùng một quần thể xảy ra do sự khác biệt về khả năng cảm giác, hình thái và khả năng bắt mồi (DeWitt và cộng sự, 1998; Wilson, 1998; Briffa và cộng sự, 2008, 2015; Briffa và Sneddon, 2016). Những khác biệt cá thể này sẽ ảnh hưởng đến hành vi kiếm ăn, khiến sự hiểu biết về sự biến đổi cá thể trở nên quan trọng đối với nuôi trồng thủy sản.

Loài tôm quan trọng nhất trong nuôi trồng thủy sản toàn cầu là tôm thẻ chân trắng Litopenaeus vannamei, chiếm hơn 70% sản lượng (FAO, 2018). Thành công trong canh tác loài này là kết quả của khả năng chịu đựng mật độ cao, tốc độ tăng trưởng cao và khả năng chịu đựng một loạt các điều kiện nước khác nhau (Briggs và cộng sự, 2004; Bondad-Reantaso và cộng sự, 2012; Jory và Cabrera, 2012). Tuy nhiên, mặc dù tầm quan trọng như là một loài nuôi, có rất ít nghiên cứu đã ghi lại hành vi kiếm ăn (nhưng xem Nunes và cộng sự, 2006; Lima và cộng sự, 2009; Da Costa và cộng sự, 2016), điều đáng ngạc nhiên là chi phí thức ăn cao liên quan đến sản xuất (Hùng và Quý, 2013) và tỷ lệ kiếm ăn chậm đã được quan sát (Costero và Meyers, 1993; Peñaflorida và Virtanen, 1996).

Mục đích của nghiên cứu này là đánh giá hành vi kiếm ăn của tôm thẻ chân trắng và sự thay đổi cá thể liên quan đến các giai đoạn nhịn ăn khác nhau (+0 giờ (đối chứng), +24 giờ, +48 giờ ) và các giai đoạn tình trạng lột xác (lột xác, trước khi lột xác, sau lột xác). Để đạt được điều này, các loại hành vi khác nhau bao gồm hành vi trạng thái, hành vi sự kiện và tìm kiếm thức ăn đã được quan sát nhiều lần ở từng con tôm. Kết quả từ nghiên cứu này sẽ có lợi cho sự hiểu biết về hành vi kiếm ăn cơ bản của tôm thẻ chân trắng và có thể giúp cung cấp thông tin cho các thử nghiệm thức ăn hành vi trong tương lai để cải thiện việc nuôi trồng thủy sản của loài có giá trị toàn cầu này.

2. Vật liệu và phương pháp

2.1. Chăn nuôi tôm

Tôm con Litopenaeus vannamei, thu được từ công ty The Fresh Shrimp (Newcastle, Vương quốc Anh) vào tháng 7 năm 2017, đã được bố trí trong hai hệ thống tuần hoàn kín 300L tại Đại học West of Scotland (Paisley, Vương quốc Anh). Mỗi hệ thống tuần hoàn có ba bể chứa (60 x 37 x 40 cm, dài x rộng x cao) và một bể chứa (65 x 50 x 39 cm). Sục khí được cung cấp trong tất cả các bể hệ thống. Nước biển nhân tạo (Seamix, muối Peacock) được đưa qua bộ lọc UV và các thông số trong bể chứa là độ mặn 30 ± 1 ppt, nhiệt độ 26,2 ± 0,4º C, > 5 mg/ L oxy hòa tan và pH 7,7 ± 0,2 (trung bình ± S.E.). Quang kỳ được duy trì ở 12 giờ sáng/ 12 giờ tối. Khoảng 22 con thẻ L. vannamei đã được phân bố cho mỗi bể chứa trong thời gian thuần 18 ngày. Trước khi sử dụng trong các thử nghiệm, tôm được kiếm ăn libitum ~ 10% sinh khối bể mỗi ngày (Gemma Diamond 1.0, Skretting France; 57% protein thô) chia đều cho ba bữa ăn (09.00, 13.00 và 19.00). Thức ăn dư thừa và phân đã được loại bỏ sau mỗi bữa ăn. Các cá thể có khối lượng cơ thể 10,51 ± 2,17 g (trung bình ± S.E.) và với tất cả các phụ bộ trong tình trạng tốt đã được chọn để sử dụng trong các thử nghiệm. 24 con tôm đã được chuyển đến một hệ thống tuần hoàn 220 L với 4 bể chứa (59 x 34 x 18 cm) và một bể chứa (65 x 50 x 39 cm), với chất lượng nước giống như trong quá trình thuần. Mỗi con tôm được đặt bên trong một buồng lưới tròn (đường kính 18 cm), và các buồng sau đó được chia giữa 4 bể chứa (mỗi bể sáu cái). 8 con tôm đã được phân bố cho mỗi trong số ba nghiệm thức nhịn ăn (chi tiết bên dưới), sao cho mỗi bể chứa chứa 2 buồng từ mỗi nghiệm thức. Tôm được giữ trong buồng trong 5 ngày trước khi bắt đầu nhịn ăn. Tôm được kiếm ăn riêng lẻ theo cùng một quy trình như trong bể chứa (tức là 10% sinh khối của chúng mỗi ngày, được chia đều cho 3 bữa ăn)

2.2. Thiết kế thử nghiệm và khẩu phần ăn

24 con tôm được chia thành 3 nghiệm thức nhịn ăn, mỗi nghiệm thức có 8 cá thể; nhóm +0 giờ (đối chứng), +24 giờ và +48 giờ  nhịn ăn. Các thử nghiệm hành vi được tiến hành vào buổi sáng (9.00-12.00), vì vậy tôm trong nhóm đối chứng được ghi nhận hành vi 14 giờ sau bữa ăn cuối cùng (tức là lúc 19:00 ngày hôm trước). Đối với thức ăn  nghiệm thức +24 giờ đã được giữ lại thêm 24 giờ, vì vậy tôm đã trải qua 38 giờ nhịn ăn trước khi thử nghiệm hành vi và tôm trong nghiệm thức +48 giờ đã trải qua 62 giờ nhịn ăn trước khi thử nghiệm hành vi. 5 thử nghiệm hành vi đã được ghi nhận cho mỗi con tôm cách nhau 3 ngày. Quá trình lột xác cũng được theo dõi trong suốt thí nghiệm để điều tra ảnh hưởng của tình trạng lột xác (trong, trước, sau) đối với hành vi của tôm.

2.3. Thử nghiệm hành vi

Bể thử nghiệm làm bằng polycarbonate (95 cm x 30 cm x 15 cm (dài x rộng x cao); hình 1) đã được sử dụng cho các thử nghiệm hành vi. Các bể bao gồm một buồng thuần (A; 10 cm x 30 cm x 15 cm) được mở bằng cách nâng cửa tách biệt, một khay kiếm ăn (B; 12 cm x 12 cm x 1 cm) ở nơi cho ăn và một buồng cách ly (C; 10 cm x 30 cm x 15 cm) có chứa camera Gopro Hero 3+ để ghi lại hoạt động tôm ăn bên trong khay. Một máy quay video khác (Canon G15) được thiết lập ngay phía trên để ghi lại toàn bộ hệ thống. Một lưới 1 cm2 được đặt dưới bề mặt dưới cùng của bể để cung cấp tỷ lệ chính xác cho video và phân tích. Các vách bể cũng được phủ bằng nhựa đen để giảm thiểu sự xáo trộn cho tôm.

Hình 1. Kích thước của bể thử nghiệm nơi tôm được ghi lại. Bể thử nghiệm bao gồm: A = khu vực thích nghi, B = khu vực cấp liệu, C = khu vực camera.

Đối với mỗi thử nghiệm, khu thử nghiệm được lấp đầy bằng 25L nước biển nhân tạo sạch (các thông số như trong hệ thống tuần hoàn) và được thay thế bằng nước biển mới cho mỗi thử nghiệm tiếp theo. Không có dòng nước nào được tạo ra trong quá trình ghi để tránh ảnh hưởng của rheotaxis đến định hướng của động vật đối với nguồn thức ăn hoặc ảnh hưởng đến chất lượng của các bản ghi video. Thức ăn tương tự (1 g, Gemma Diamond 1.0 Skretting France; 57% protein thô) đã được thêm vào khu vực kiếm ăn khi tôm được đặt trong hệ thống để giảm tất cả các rối loạn có thể xảy ra sau khi thuần. Khi bắt đầu thử nghiệm, tôm được chuyển ra khỏi buồng của chúng và được đặt trong buồng thuần trong 10 phút trước khi mở cửa. Sau đó, cả hai máy quay video đều được bật và tôm được quay trong 20 phút để phân tích hành vi (xem bên dưới). Trong tuần trước khi thử nghiệm thử nghiệm, tôm đã được đưa vào bể thử nghiệm trong 3 lần riêng biệt, giống như trong các thử nghiệm, để chúng thích nghi với bể. Cùng loại thức ăn và số lượng cũng được cung cấp trong các thử nghiệm thích nghi này

2.4. Đơn vị hành vi

Một ethogram đã được phát triển cho hành vi cho tôm ăn dựa trên Lee và Meyers (1996) (Bảng 1). Phân tích các hành vi được thực hiện bằng phần mềm BORIS v. 6.0.1 (Friard và Gamba, 2016). Hành vi không hoạt động, phát hiện, định hướng, bơi, chạy trốn và kiếm ăn được ghi nhận là ‘hành vi trạng thái’ loại trừ lẫn nhau (Bảng 1A), chiếm quỹ toàn thời gian (tức là 1200 giây). Những hành vi trạng thái này được phân loại thêm là ‘thụ động’ hoặc ‘chủ động’ tùy thuộc vào việc tôm có di chuyển hay không. Ngoài ra, nhịp chân càng, nhịp mắt và lau râu được ghi nhận là ‘hành vi sự kiện’ (Bảng 1B). Thay vì khoảng thời gian, những hành vi này được ghi lại dưới dạng số lượng và có thể được thực hiện cùng lúc với ‘hành vi trạng thái’.

Bảng 1. Ethogram của Litopenaeus vannamei phỏng theo Lee và Meyers (1996). Hai loại hành vi được xác định: (A) Hành vi trạng tháii loại trừ lẫn nhau, trong tổng tính toán cho quỹ toàn thời gian; (B) Hành vi sự kiện độc lập với nhau, được ghi lại dưới dạng tần số và không được bao gồm trong quỹ thời gian tổng thể.

2.5. Phân tích thống kê

Phân tích thống kê được thực hiện bằng phần mềm R v. 3.4.3 và IBM SPSS Statistics v.25.

2.5.1. Sự khác biệt về hành vi liên quan đến tình trạng nhịn ăn và lột xác

Dữ liệu thu được từ phân tích video đã được chuyển đổi log để đạt được tính quy tắc. Sự khác biệt trong tất cả các hành vi được xem xét trong mỗi nghiệm thức nhịn ăn và tình trạng lột xác đã được phân tích bằng cách sử dụng Mô hình tuyến tính tổng quát (GLM), trong đó tình trạng nhịn ăn/ lột xác được coi là giữa các yếu tố và mỗi hành vi được coi là một yếu tố bên trong. ID tôm được đưa vào như một yếu tố ngẫu nhiên trong mô hình để tính đến các quan sát lặp đi lặp lại do từng cá thể đóng góp dữ liệu cho từng giai đoạn lột xác. Cần lưu ý rằng trong khi nghiệm thức nhịn ăn được chỉ định (n = 8), tình trạng lột xác phụ thuộc vào tôm đã trải qua chu kỳ lột xác tự nhiên trong quá trình thí nghiệm. Điều này đã được tính đến trong mô hình thống kê. Tất cả 24 con tôm được sử dụng trong nghiên cứu này đều trải qua cả 3 giai đoạn lột xác (trước khi lột xác, lột xác, sau lột xác), nhưng số lượng video của từng con tôm riêng lẻ thấp hơn cho giai đoạn sau lột xác do độ dài ngắn hơn của giai đoạn này. Điều này tạo ra tổng cộng 9 loại tình trạng tôm có thể xảy ra (tức là 3 trạng thái nhịn ăn x 3 giai đoạn lột xác). Do vi phạm về tính hình cầu, các hiệu chỉnh Greenhouse-Geisser hoặc Huynh-Feldt đã được áp dụng. Khi các hiệu ứng tổng thể đáng kể được tìm thấy, các thử nghiệm về các hiệu ứng đơn giản đã được thực hiện, sau đó là các thử nghiệm post-hoc. Các phân tích  post-hoc đã được thực hiện bằng cách sử dụng thử nghiệm Tukey để phân tích sự khác biệt tình trạng giữa các nghiệm thức nhịn ăn hoặc lột xác và so sánh theo cặp Bonferroni đã được thực hiện để kiểm tra sự khác biệt giữa các hành vi được phân tích. Sự khác biệt đáng kể đã được ghi nhận khi p < 0,05.

2.5.2. Tương quan của các hành vi trạng thái

Phân tích tương quan của Pearson được thực hiện trên các hành vi của từng trạng thái, sử dụng tất cả các bản ghi video được quan sát liên quan đến tình trạng nhịn ăn và lột xác làm điểm dữ liệu riêng biệt. Có 5 video được quay cho mỗi con tôm (tức là lặp lại theo thời gian) do đó có tổng cộng 120 video quay. Các mối tương quan đã tìm kiếm mối quan hệ tổng thể giữa các hành vi khác nhau để xác định xem có bất kỳ hành vi nào trong số chúng có tương quan chặt chẽ với thời gian kiếm ăn hay không. Mối tương quan tích cực cho thấy mối quan hệ tích cực giữa 2 hành vi (tức là mức độ cao của một hành vi có tương quan với mức độ cao của hành vi kia), trong khi mối tương quan nghịch giữa hai hành vi chỉ ra rằng một hành vi đang được thực hiện bằng sự đánh đổi của hành vi kia.

2.5.3. Điểm hấp dẫn của thức ăn

Điểm hấp dẫn của thức ăn được tính như sau:

Do đó, các giá trị cho điểm hấp dẫn dao động từ 0-100%; trong đó các giá trị cao hơn thể hiện sức hấp dẫn lớn hơn. Sự khác biệt về điểm số này đã được phân tích theo nhóm nhịn ăn và tình trạng lột xác một lần nữa bằng cách sử dụng GLM với trạng thái nhịn ăn/ lột xác như một yếu tố giữa và điểm hấp dẫn của thức ăn như một yếu tố bên trong. Một lần nữa, ID tôm được đưa vào như một yếu tố ngẫu nhiên trong mô hình để tính đến các quan sát lặp đi lặp lại do mỗi con đóng góp dữ liệu cho từng giai đoạn lột xác. Do vi phạm về tính hình cầu, các hiệu chỉnh Greenhouse-Geisser hoặc Huynh-Feldt đã được áp dụng. Khi các hiệu ứng đáng kể tổng thể được tìm thấy, các thử nghiệm về các hiệu ứng đơn giản đã được thực hiện, sau đó là các thử nghiệm post-hoc. Các phân tích post-hoc được thực hiện bằng cách sử dụng thử nghiệm Tukey để phân tích sự khác biệt tình trạng giữa các nghiệm thức nhịn ăn hoặc lột xác. Sự khác biệt đáng kể đã được ghi nhận khi p < 0,05.

Ngoài ra, một phân tích hồi quy đã được thực hiện để xác nhận xem điểm hấp dẫn thức ăn có phải là yếu tố dự đoán thời gian tổng thể dành kiếm ăn hay không. Mặc dù tôm ban đầu chuyển sang khay ăn nhanh chóng có nhiều thời gian hơn trong thử nghiệm để kiếm ăn, việc đến khay kiếm ăn sớm không nhất thiết có nghĩa là thời gian thử nghiệm còn lại sẽ được dành kiếm ăn, vì tôm có thể rời khỏi khay ăn ngay lập tức.

2.5.4. Biến thể giữa và trong- của từng con tôm

Chúng tôi đã nghiên cứu ảnh hưởng của việc nhịn ăn đối với sự thay đổi giữa và trong phạm vi cá thể trong hành vi trạng thái và điểm hấp dẫn thức ăn bằng cách xác định tính nhất quán (tức là khả năng lặp lại) trong hành vi của các cá thể. Để đạt được điều này, các mô hình hiệu ứng hỗn hợp đơn biến đã được thực hiện bằng cách sử dụng gói R lme4 (Bates và cộng sự, 2018). Phân tích tính nhất quán của hành vi tôm đã được thực hiện bằng cách sử dụng phương pháp nhịn ăn như một yếu tố cố định. Không thể sử dụng phân tích này theo trạng thái lột xác do kích thước mẫu thấp ở một số nhóm. Chúng tôi bao gồm tỷ lệ thời gian có sẵn dành cho việc thực hiện từng hành vi dưới dạng biến phụ thuộc, lần lượt chạy các mô hình hiệu ứng hỗn hợp riêng biệt cho từng hành vi với danh tính tôm được bao gồm như một yếu tố ngẫu nhiên (Zuur và cộng sự, 2009). Sau đó, các hệ số tương quan trong lớp đã được tính toán (hoặc khả năng lặp lại) từ đầu ra của mô hình bằng cách chia phương sai giữa các cá thể (tức là Vind0) cho tổng phương sai (tức là Vind0 + Ve0; trong đó Ve0 là độ dẻo trung bình trong phạm vi cá thể đối với bất kỳ kích thích nào không có ý nghĩa về mặt thống kê) (Dingemanse và Dochtermann, 2013). Chúng tôi đã sử dụng kết quả này để xác định xem thời gian của một con tôm trong mỗi hành vi có thể lặp lại hay không, đó là liệu một phần lớn hơn của tổng phương sai có thể được quy cho sự khác biệt giữa các con tôm hơn là trong các con tôm hay không (Nakagawa và Schielzeth, 2010; Dingemanse và Dochtermann, 2013; Cleasby và cộng sự, 2015). Để tính toán khoảng tin cậy (95% CI), chúng tôi đã sử dụng tham số khởi động với 1000 mô phỏng bằng cách sử dụng gói R ‘rptR’ (Stoffel và cộng sự, 2017). Ước tính độ lặp lại được coi là không đáng kể nếu ước tính thấp hơn về khoảng tin cậy gần bằng không (tức là <0,1) (Houslay và Wilson, 2017).

Ngoài ra, việc giải thích trực quan các kết quả biến đổi riêng lẻ đã được thực hiện thông qua việc tính toán các hệ số biến thể (CV), cho cả nhóm trạng thái nhịn ăn và lột xác. CV là một thước đo thống kê về sự phân tán của các điểm dữ liệu xung quanh một giá trị trung bình, với các giá trị cao hơn cho thấy mức độ biến đổi lớn hơn. Nó được tính bằng cách chia độ lệch chuẩn của chuỗi dữ liệu được đề cập cho giá trị trung bình của nó (tức là CV = SD / trung bình). Dữ liệu được nhóm theo nghiệm thức nhịn ăn ban đầu đã được xem xét, tiếp theo là những dữ liệu được nhóm theo tình trạng lột xác, nhưng chỉ phân tích giữa các biến thể riêng lẻ liên quan đến tình trạng lột xác do kích thước mẫu thấp trong nhóm sau lột xác.

Theo Guillermo Bardera, Matthew A.G. Owen, Daniel Pountney, Mhairi E. Alexander, Katherine A. Sloman

Nguồn: https://sci-hub.hkvisa.net/10.1016/j.aquaculture.2019.734222

Biên dịch: Nguyễn Thị Quyên – Tôm Giống Gia Hóa Bình Minh

TÔM GIỐNG GIA HÓA – CHÌA KHÓA THÀNH CÔNG

Xem thêm:

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *