Đây là thông tin hiển thị trên website, KHÔNG dùng để quét mã QR. Vui lòng liên hệ 1900 86 68 69 nếu link QR dẫn đến trang web này.
Đây là thông tin hiển thị trên website, KHÔNG dùng để quét mã QR. Vui lòng liên hệ 1900 86 68 69 nếu link QR dẫn đến trang web này.

Tiến sĩ Ruth Garcia Gomez, Giám đốc Phát triển Kinh doanh về Sản phẩm Chăm sóc Trang trại và Sức khỏe Thủy sản tại các tiểu vùng APAC/ISC của Adisseo cho biết, ngày nay, tỷ lệ bùng phát dịch bệnh không chỉ liên quan đến việc tăng cường nuôi thâm canh mà còn gia tăng các yếu tố gây căng thẳng trong quá trình nuôi, bao gồm chế độ ăn khó tiêu hóa hơn, điều kiện môi trường thay đổi, các hiện tượng thời tiết khắc nghiệt và thuốc thú y trong nuôi trồng thủy sản còn hạn chế. Đối với ngành tôm, một đánh giá đã chỉ ra rằng đến năm 2050, có thể có khoảng 40% thiệt hại do các bệnh truyền nhiễm. Cô đã nói điều này khi trình bày “Tác động chi phí của việc sử dụng các chất phụ gia chức năng tốt cho sức khỏe đối với người nông dân là gì và động lực nào để các nhà máy thức ăn thay đổi” tại TARS 2022 Thức ăn chăn nuôi thủy sản: Trạng thái cân bằng mới vào tháng 10.

Garcia Gomez cho biết: “Chúng ta phải đối mặt với mầm bệnh đa yếu tố – rất thường xảy ra trong nuôi trồng thủy sản, không phải mầm bệnh đơn lẻ mà là các trường hợp đồng nhiễm và bệnh đa yếu tố, ví dụ như trong nuôi cá rô phi ở Thái Lan. Trong các hệ thống nuôi mở, trong suốt chu kỳ sản xuất từ trại giống cho đến sau khi kết thúc nuôi thương phẩm, người nuôi phải đối mặt với các bệnh truyền nhiễm do vi khuẩn, virus và các loại ký sinh trùng bên ngoài và bên trong.”

Quản lý dịch bệnh trong lĩnh vực chăn nuôi được tổ chức tốt về mặt dịch tễ học và chẩn đoán sớm, chọn lọc di truyền theo hướng kháng mầm bệnh, các chương trình tiêm phòng chủ động cũng như các chiến lược an toàn sinh học mạnh mẽ tại trang trại và cải thiện việc quản lý. Tuy nhiên, ngành nuôi trồng thủy sản lại có một loạt thách thức khác. Là một bác sĩ thú y, Garcia Gomez đã đặt câu hỏi liệu ngành nuôi trồng thủy sản có đầu tư đủ vào công tác phòng ngừa hay không và liệu một viên thuốc thú y có tác dụng chống lại nhiều bệnh truyền nhiễm hay không?

Về các phương pháp phòng ngừa và cách đánh giá giá trị kinh tế của chúng, Garcia Gomez cho biết: “Chúng tôi tin tưởng vào các phương pháp phòng ngừa và thúc đẩy ý tưởng về các chất phụ gia sức khỏe có phạm vi rộng hơn với nhiều phương thức hoạt động. Axit hữu cơ có tác động rõ ràng đến tải lượng mầm bệnh – giảm số lượng vi khuẩn. Trong khi đó, phyto-biotics có tác động rõ ràng đến vật chủ, tăng khả năng kháng bệnh thông qua điều chỉnh hệ vi khuẩn đường ruột, cải thiện và duy trì tính toàn vẹn và cấu trúc của ruột, hạn chế sự giao tiếp của vi khuẩn và do đó, thúc đẩy tăng trưởng và lợi nhuận. Một hệ thống miễn dịch cân bằng là rất quan trọng để giảm căng thẳng và tăng cường khả năng miễn dịch.

Garcia Gomez cho biết: “Cần phải thay đổi suy nghĩ về các chất phụ gia chức năng cho sức khỏe khi được hỗ trợ và xác thực bằng dữ liệu khoa học thu được thông qua các thử nghiệm in vivo và in vitro. Tuy nhiên, chúng ta cần có các khung pháp lý rõ ràng và mạch lạc ở cấp quốc gia và khu vực trong việc thúc đẩy các loại hình phòng ngừa. Các phương pháp phòng ngừa và lựa chọn thay thế cho việc sử dụng thuốc kháng sinh có thể làm giảm sự kháng thuốc sẽ luôn được công chúng chấp nhận. Trong hầu hết các trường hợp, chúng an toàn và có thể truy xuất nguồn gốc.”

Các chương trình y tế dự phòng

Indonesia: Giảm tác động của WFS

Garcia Gomez đã thảo luận về một số kết quả từ các thử nghiệm thương mại được thực hiện với tôm thẻ chân trắng Penaeus vannamei ở Indonesia. Thử nghiệm xem xét việc giảm tác động của hội chứng phân trắng (WFS) bằng cách sử dụng chất phụ gia dựa trên phyto-biotic.

Tầm quan trọng của thử nghiệm này song song với bài trình bày của Tiến sĩ Olivier Decamp, về tác động của Enterocytozoon hepatopenaei (EHP) trong nuôi tôm ở Việt Nam và sự kết hợp của nó với WFS và bệnh Vibrio. Trong thử nghiệm này, WFS được phát hiện vào ngày nuôi (DOC) 30-40 trong 4 vụ nuôi gần nhất tại trang trại. Phát hiện tôm dương tính với EHP thông qua PCR. Tỷ lệ sống tối đa là 50% và hệ số chuyển đổi thức ăn (FCR) là 1,7. Tải lượng Vibrio cao hơn 102 CFU/mL.

Garcia Gomez đã thảo luận về kết quả từ việc bổ sung theo hai biện pháp khác nhau (khắc phục và phòng ngừa). Có sự cải thiện về tỷ lệ sống (+164%), FCR (-32%) và sinh khối khi thu hoạch (64%). Ngoài ra, việc sử dụng liều lượng phòng ngừa trong toàn bộ chu kỳ đã duy trì tốc độ tăng trưởng và tỷ lệ sống ở mức trước khi bùng phát WFS (ROI 1:40).

“Điều quan trọng nữa là việc đánh giá môi trường để đánh giá số kg CO2 trên mỗi kg tôm cho thấy phương pháp khắc phục đã giảm đáng kể tổng lượng CO2 sản sinh ra đến 16%, trong khi sự kết hợp giữa phương pháp phòng ngừa và khắc phục đã giảm đến 39%.”

Việt Nam: Giảm tác động của ký sinh trùng bên ngoài

Đây là kết quả của một thử nghiệm trang trại hoàn toàn khác trên loài cá mú hoa nâu Epinephelus fuscoguttatus cùng với Đại học Nông nghiệp Quốc gia Hà Nội. Mục tiêu của thử nghiệm là xác nhận hiệu quả của một chất phụ gia sức khỏe dựa trên các loại tinh dầu nhằm giảm tác động của ký sinh trùng bên ngoài trong thời gian nuôi 90 ngày. Tác động của liều lượng trung bình và cao đối với sự phổ biến của 4 nhóm ký sinh trùng (Dactylogyrus sp. Argulus sp., Zeylanicobdella spTrichodina sp.) đã được tính toán.

Hình 1. Kết quả của việc bổ sung chất phụ gia dựa trên phyto-biotic ở Indonesia: phương pháp khắc phục để giảm thiểu các dấu hiệu nhiễm bệnh (ROI 1:18), phương pháp phòng ngừa kết hợp khắc phục để duy trì tốc độ tăng trưởng và tỷ lệ sống trước khi bùng phát WFS (ROI 1:40)

“Kết quả thú vị là việc giảm thiểu mức độ nhiễm ký sinh trùng bên ngoài có tác động rõ ràng đến tình trạng sức khỏe chung của cá và hệ thống miễn dịch của chúng, đồng thời cải thiện năng suất và lợi nhuận tổng thể. Sinh khối cuối cùng tăng 10,9% với liều lượng cao và 8,5% với liều trung bình.”

Kết luận

Cuối cùng, Garcia Gomez đã so sánh lợi ích chi phí của các chất phụ gia sức khỏe đối với người nuôi tôm, cá có vây và các nhà máy chế biến thức ăn chăn nuôi. Bà cảnh báo rằng tính năng của các chất phụ gia nên đi đôi với các chiến lược quản lý và an toàn sinh học được cải thiện để tối ưu hóa kết quả. “Có những lợi ích rõ ràng đối với nông dân khi họ bắt đầu hành động và suy nghĩ về việc phòng ngừa và tất nhiên là cải thiện hiệu suất và lợi nhuận. Các nhà sản xuất thức ăn chăn nuôi cần thay đổi công thức thức ăn, phụ thuộc vào sự sẵn có của các chất phụ gia cũng như sự chấp nhận và động lực của nông dân. Họ cũng cần phải tạo ra sự thích nghi dành riêng cho loài và xác nhận các sản phẩm tùy chỉnh.”

Ruth Garcia Gomez

Khi ngành đang cân nhắc về lợi ích của các chất phụ gia chức năng, Garcia Gomez đặt câu hỏi “Liệu ngành có đủ bằng chứng về tác động tích cực của các chất phụ gia chức năng và các bên tham gia có cần thay đổi suy nghĩ của mình đối với việc phòng ngừa trong nuôi trồng thủy sản không? Ngoài ra, ngành có nên tiếp tục đầu tư vào nghiên cứu, phát triển và đổi mới không?”

Hình 2. Mức độ nhiễm Argulus sp., Zeylanicobdella sp. (đơn vị: ký sinh trùng/cá) và Trichodina sp. và Dactylogyrus sp. (đơn vị: ký sinh trùng/ độ phóng đại 10×10). Phương pháp thống kê ANOVA.

Theo Aqua Culture Asia Pacific

Nguồn: https://aquaasiapac.com/issue/march-april-2023/

Biên dịch: Huyền Thoại – Tôm Giống Gia Hóa Bình Minh

TÔM GIỐNG GIA HÓA – CHÌA KHÓA THÀNH CÔNG

Xem thêm:

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

You cannot copy content of this page