Tóm tắt

Mục tiêu: Ấu trùng tôm thẻ chân trắng (Penaeus vannamei) F1 là niềm khao khát của bất kỳ người nuôi tôm nào khi thả giống vào ao. Lý do là bởi ấu trùng F1 sở hữu tốc độ tăng trưởng vượt trội, đặc biệt là khi chúng được chứng nhận sạch bệnh (SPF), không mang mầm bệnh cụ thể. Bài báo khoa học này tập trung đánh giá các chiến lược cho ăn thực vật phù du trong giai đoạn ương ấu trùng nhằm tăng tỷ lệ sống cho ấu trùng tôm F1.

Địa điểm và thời gian nghiên cứu: Hoạt động nghiên cứu này được thực hiện từ tháng 11 đến tháng 12 năm 2021 tại Phòng thí nghiệm giống tôm, Khoa Công nghệ Nuôi trồng Thủy sản, Trường Bách khoa Nông nghiệp Bang Pankep.

Phương pháp: Ấu trùng được lấy từ ngành sản xuất giống tôm và sau đó thả vào 2 bể có kích thước 4m x 4m x 1,5m. Trước khi thả giống, ấu trùng được làm quen với nhiệt độ (28°C) và độ mặn (30 ppt). Ấu trùng được cho ăn thức ăn sống (Skeletonema costatum) từ giai đoạn Nauplii-6 đến Mysis-2. Ngoài ra, ấu trùng còn được cho ăn thức ăn nhân tạo và ấu trùng Artemia. Việc quan sát sự phát triển của ấu trùng được thực hiện ở từng giai đoạn bằng kính hiển vi (40x) và việc quan sát số lượng quần thể của từng giai đoạn được thực hiện theo thể tích. Phân tích ký sinh trùng ở từng giai đoạn được thực hiện tại Khu kiểm dịch cá Makassar.

Kết quả: Kết quả cho thấy trong quá trình chuyển giai đoạn từ Nauplius-6 sang Zoea-1, ấu trùng đã vượt qua thành công hội chứng zoea (ruột rỗng). Sự suy giảm dân số chỉ giảm 2% (từ 1.200.000 cá thể giảm xuống còn 1.175.600 cá thể). Dân số cuối cùng (PL10) là 1.084.000 (SR 90%). Kết quả phân tích ký sinh trùng cho thấy ấu trùng không mắc bệnh gì. Việc sử dụng thực vật phù du (S. costatum) ở giai đoạn đầu (Nauplius-6) với liều 60 x 106 tế bào/ml đã thành công trong việc giảm tỷ lệ chết (2%) ở giai đoạn nguy kịch (hội chứng zoea) của ấu trùng tôm thẻ chân trắng F1.

Giới thiệu

Nuôi tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei) cũng gặp nhiều hạn chế, tương tự như nuôi tôm sú. Mất mùa do dịch bệnh là vấn đề thường xuyên xảy ra, dẫn đến thiệt hại lớn cho người nuôi. Quản lý chất lượng nước kém là nguyên nhân chính dẫn đến dịch bệnh trong nuôi tôm. Tuy nhiên, với sự phát triển của công nghệ, người nuôi có thể kiểm soát chất lượng nước hiệu quả hơn. Chất lượng ấu trùng tôm là yếu tố khó kiểm soát hơn đối với người nuôi. Nâng cao chất lượng ấu trùng và quản lý chất lượng nước hiệu quả là những giải pháp thiết yếu để khắc phục hạn chế trong hệ thống nuôi tôm thẻ chân trắng, góp phần tăng sản lượng và giảm thiểu rủi ro cho người nuôi.

Ấu trùng tôm thẻ chân trắng thế hệ thứ nhất (F1) là niềm hy vọng mới của người nuôi tôm. Điều này là do ấu trùng F1 có tốc độ tăng trưởng nhanh hơn, đặc biệt nếu ấu trùng có chứng chỉ không chứa mầm bệnh (SPF) cụ thể từ Chứng nhận Berau được Ủy ban Chứng nhận Quốc gia (Komite Akritasi Nasional) công nhận. Tình trạng mất mùa ngày càng phổ biến trong nuôi tôm thẻ chân trắng, tình trạng này thường xảy ra vào tháng thứ 2 của vụ nuôi, gây thiệt hại lớn cho người nuôi. Vì vậy ấu trùng F1 có thể thu hoạch được dù bị dịch bệnh tấn công vào tháng thứ 2 nhờ khả năng tăng trưởng nhanh. Việc sử dụng ấu trùng F1 giúp người nuôi tiết kiệm chi phí do giảm nguy cơ mất mùa và tăng năng suất.

Thực vật phù du là nguồn thức ăn tự nhiên không thể thiếu cho ấu trùng tôm F1 trong giai đoạn đầu (nauplii đến zoea) để cung cấp đủ chất dinh dưỡng cho ấu trùng phát triển khỏe mạnh. Giai đoạn đầu, đặc biệt là giai đoạn zoea (hội chứng zoea), ấu trùng có ruột rỗng và dễ chết hàng loạt. Khả năng lấy thức ăn từ bên ngoài lần đầu tiên quyết định sự sống còn của ấu trùng. Vì vậy, cung cấp thực vật phù du hợp lý là yếu tố then chốt để sản xuất ấu trùng tôm F1 không mang mầm bệnh, giúp nâng cao tỷ lệ sống và đảm bảo thành công cho quá trình nuôi tôm.

Để khắc phục khó khăn trong việc cung cấp thực vật phù du cho giai đoạn đầu của ấu trùng tôm thẻ chân trắng, cần có chiến lược đặc biệt trong quản lý thức ăn, trong đó có chiến lược cung cấp thực vật phù du. Các chiến lược cần thiết bao gồm loại thực vật phù du, mật độ (liều lượng) thực vật phù du, thời gian và tần suất. Ngoài ra, chiến lược cung cấp thực vật phù du đòi hỏi môi trường và không khí vô trùng.

Mục đích của nghiên cứu này là đánh giá chiến lược sử dụng thực vật phù du đến tỷ lệ sống của ấu trùng tôm thẻ chân trắng F1 sạch bệnh.

Phương pháp nghiên cứu

Địa điểm và thời gian nghiên cứu

Hoạt động nghiên cứu này được thực hiện từ tháng 11 đến tháng 12 năm 2021 tại Phòng thí nghiệm giống tôm, Khoa Công nghệ Nuôi trồng Thủy sản, Trường Bách khoa Nông nghiệp Bang Pangkep, Nam Sulawesi, Indonesia.

Vật liệu nghiên cứu

Môi trường được sử dụng trong nuôi ấu trùng tôm ở dạng 2 bể bê tông có kích thước 4 m x 4 m x 1,5 m được trang bị hệ thống sục khí và lấy nước. Bể được đặt bên trong tòa nhà. Nauplius thu được từ ngành sản xuất giống tôm. Nước được sử dụng lấy từ biển, được bơm và lọc, sau đó được lưu trữ và lắng đọng cùng một lúc. Sau đó, được lọc bằng máy ozone và lọc tia UV trước khi đưa vào bể nuôi ấu trùng và nuôi tảo đại trà.

Thả ấu trùng tôm

Việc thả ấu trùng tôm (giai đoạn ấu trùng) được thực hiện bằng cách làm quen với nhiệt độ (30°C) và độ mặn (28 ppt), bằng cách ngâm túi ấu trùng vào bể ương trong khoảng 30 phút. Sau khi nhiệt độ của nước trong túi ấu trùng bằng nhiệt độ của nước trong bể ương, tiếp theo, người ta mở túi nhựa chứa ấu trùng và đổ nước từ bể ương vào từng chút một để thích nghi với độ mặn. Sau đó, ấu trùng được lấy ra khỏi túi nhựa bằng cách cẩn thận đổ chúng vào bể nuôi. Tổng cộng có 1.200.000 ấu trùng được thả trong 2 ao bê tông có kích thước 4 m x 4 m x 1,5 m hoặc 600.000 ấu trùng được thả trong mỗi ao. Ao được trang bị hệ thống sục khí.

Cho ăn

Loại thức ăn cho ấu trùng tôm thẻ chân trắng trong quá trình nuôi là thức ăn sống, thực vật phù du, động vật phù du và thức ăn nhân tạo. Thức ăn sống cho thực vật phù du được cung cấp là Skeletonema costatum và thức ăn sống cho động vật phù du được cung cấp là Artemia salina. Nguồn tảo được lấy từ Trung tâm trồng trọt nước lợ Siddo, Barru Regency, Nam Sulawesi. Nguồn tảo được nuôi đại trà bằng cách sử dụng bể sợi (2 tấn) chứa đầy nước biển và được cho ăn NPK 15 ppm, EDTA 2 ppm (Ethylen Diamine Tetra Acetic Acid) và silicat 0,5 ppm. Nuôi cấy đại trà được thực hiện trong 2-3 ngày. Đối với thức ăn nhân tạo được cung cấp, cụ thể là thức ăn ở dạng bột như bột tảo xoắn, vitamin P1 và frippak.

Việc cho ăn thức ăn sống Skeletonema costatum (Bảng 1) trong nuôi ấu trùng tôm thẻ chân trắng bắt đầu từ giai đoạn nauplii-6 đến ấu trùng giai đoạn mysis-3. Việc quản lý tảo được thực hiện ở giai đoạn zoea lên tới 60.000 tế bào/ml. Tăng mật độ tảo theo sự phát triển của ấu trùng. Ngưng cho ăn ở giai đoạn tôm post. Việc cho ăn ấu trùng Artemia salina trong quá trình nuôi ấu trùng tôm thẻ chân trắng bắt đầu khi ấu trùng đạt giai đoạn MPL đến PL10, được cho ăn 4 lần/ngày vào các thời điểm 09:00, 15:00, 21:00 và 03:00. Mật độ được điều chỉnh theo tốc độ tăng trưởng của ấu trùng. Thức ăn nhân tạo được cho ăn khi bước vào giai đoạn zoea (Bảng 2). Loại thức ăn nhân tạo được sử dụng là (bột tảo xoắn, vitamin P1 và frippak) lên tới 2 ppm. Liều lượng thức ăn mỗi ngày tăng lên tùy theo chất chứa trong dạ dày. Trong giai đoạn mysis được cung cấp vitamin (0,33 ppm). Tần suất cho ăn nhân tạo 6 lần/ngày vào lúc 09:00, 13:00, 17:00, 21:00, 01:00 và 05:00.

Bảng 1. Chương trình cho ăn thức ăn sống (tảo và Artemia)

Bảng 2. Chương trình cho ăn thức ăn nhân tạo

Quan sát sự phát triển của ấu trùng

Việc thu thập dữ liệu được thực hiện bằng cách lấy mẫu ở từng giai đoạn bằng cách quan sát sự phát triển của ấu trùng ở từng giai đoạn. Mỗi giai đoạn phát triển được quan sát bằng cách quan sát sự hoàn chỉnh của các cơ quan được sở hữu bằng kính hiển vi.

Quan sát số lượng dân số và tỷ lệ sống

Xác định số lượng ấu trùng trong bể ương bằng phương pháp lấy mẫu tại 5 điểm trong bể. Mẫu được lấy bằng cốc biker thể tích 100 ml. Đếm số lượng ấu trùng thu thập được. Mật độ ấu trùng trong bể được xác định theo công thức:

Tỷ lệ sống của ấu trùng tôm thẻ chân trắng là tỷ lệ giữa số lượng ấu trùng còn sống và tổng số tôm thẻ chân trắng thả nuôi. Tỷ lệ sống có thể được tính theo công thức [8] như sau:

Phân tích ký sinh trùng

Các xét nghiệm ký sinh trùng đối với ấu trùng tôm được thực hiện bằng hệ thống phản ứng chuỗi Polymerase (PCR) tại Trung tâm kiểm dịch Makassar và các xét nghiệm về hàm lượng ký sinh trùng trong nước được thực hiện tại Trung tâm nghiên cứu thủy sản và nuôi trồng thủy sản nước lợ, Maros, Nam Sulawesi.

Chất lượng nước

Việc đo chất lượng nước được thực hiện hàng ngày với tần suất 2 lần/ngày vào buổi sáng và buổi tối. Các thông số chất lượng nước được đo là nhiệt độ, oxy hòa tan, độ mặn và độ pH tại chỗ bằng cách sử dụng Jala Tech Baruno. Phân tích dữ liệu được thực hiện một cách mô tả bằng cách so sánh các kết quả được công bố trên các tạp chí được công nhận, cả trong nước và quốc tế.

Kết quả và thảo luận

Sự phát triển của ấu trùng

Sự phát triển của ấu trùng trong quá trình nuôi ấu trùng (Hình 1) được quan sát bằng kính hiển vi (40X). Qua quan sát cho thấy giai đoạn chuyển từ ấu trùng sang zoea thường mất khoảng 36-40 giờ kể từ khi trứng nở. Ở giai đoạn này, ấu trùng phát triển kích thước rất nhanh và các cơ quan kiếm ăn bắt đầu hoạt động và tích cực ăn thực vật phù du. Giai đoạn Zoea là giai đoạn yếu nhất, nhạy cảm với ánh sáng mạnh và có ba substadia. Cơ thể có thể được chia thành ba phần: mai, ngực và bụng. Zoea 1 có đặc điểm là có sự khác biệt giữa phần đầu ngực và phần bụng khi quan sát bằng mắt thường và có mắt nhưng không có trên mai, zoea 2 có đặc điểm là mắt bắt đầu nằm trên cuống mắt và nằm ở phía trên mai và miệng có thể nhìn thấy được giữa hai mắt, zoea 3 được đặc trưng bởi sự hình thành các uropod hai nhánh và gai xuất hiện ở một số nơi ở bụng.

Hình 1. Sự phát triển của ấu trùng tôm thẻ chân trắng được quan sát bằng kính hiển vi có độ phóng đại 40 X. Giai đoạn Nauplius (A), giai đoạn Zoea (B), giai đoạn Mysis (C) và giai đoạn hậu ấu trùng (D)

Giai đoạn zoea được biết đến là giai đoạn quan trọng nhất trong sự phát triển của ấu trùng tôm vì nó dễ bị ảnh hưởng bởi những thay đổi môi trường và nhiễm mầm bệnh khác nhau. Hội chứng Zoea được đặc trưng bởi ruột ấu trùng trống rỗng và tỷ lệ chết có thể lên tới 100%. Tuy nhiên, dựa trên kết quả quan sát dưới kính hiển vi cho thấy ruột của ấu trùng Zoea trông đầy đặn (có màu nâu).

Giai đoạn mysis giống tôm trưởng thành hơn so với hai giai đoạn trước và thể chất khỏe hơn. Loại thức ăn có thể ăn được là thực vật phù du và động vật phù du có xu hướng thích động vật phù du ở cuối giai đoạn mysis. Có ba substadia và có thể được phân biệt với sự phát triển của phần phụ ở ngực và chân (chân bơi). Giai đoạn Mysis 1 được đánh dấu bằng sự hình thành của uropod nguyên thủy và pleopod xuất hiện, mysis 2 được đánh dấu bằng sự phát triển của pleopod và mysis 3 các bộ phận pleopod ngày càng dài hơn và phân chia rõ ràng.

Sự thay đổi hình dạng từ giai đoạn mysis sang giai đoạn hậu ấu trùng diễn ra vào ngày thứ chín sau khi nở. Ấu trùng ở giai đoạn này giống tôm trưởng thành và có sức chịu đựng cao hơn nên khỏe hơn. Giai đoạn này được đánh dấu bằng sự hình thành hoàn hảo của lớp vỏ và sự hiện diện của các sợi lông trên lớp vỏ sẽ giúp tôm bơi. Khả năng bơi lội thay đổi vì pleopod đã phát triển và bắt đầu hoạt động. Đặc biệt, ấu trùng giai đoạn đầu vẫn còn sống ở cá nổi cho đến khi chúng bước vào giai đoạn PL ở đáy.

Số lượng và tỷ lệ sống của ấu trùng

Kết quả tính toán số lượng và tỷ lệ sống của ấu trùng tôm thẻ chân trắng trong quá trình nuôi cho thấy tỷ lệ sống của ấu trùng tôm thẻ chân trắng giảm theo sự thay đổi giai đoạn ấu trùng (Bảng 3). Số lượng ấu trùng ban đầu khi bắt đầu nuôi là 1.200.000 (SR 100%). Bước sang giai đoạn zoea-1, tỷ lệ sống của ấu trùng (SR) giảm xuống còn 98%. Giai đoạn zoea có nguy cơ cao xảy ra hội chứng zoea, dẫn đến ấu trùng chết hàng loạt. Tuy nhiên, trong nghiên cứu này, hội chứng zoea không xảy ra do cung cấp đầy đủ thực vật phù du cho ấu trùng. Tỷ lệ sống cao có thể được lý giải bởi việc quản lý tốt môi trường nuôi và cung cấp thức ăn phù hợp cho từng giai đoạn phát triển của ấu trùng. Quần thể PL10 khi kết thúc nuôi là 1.084.000 cá thể hoặc tỷ lệ sống là 90%. Tỷ lệ sống của ấu trùng tôm đạt được rất cao khi so sánh với một số báo cáo nghiên cứu.

Bảng 3. Số lượng và tỷ lệ sống (SR)

Giai đoạn Nauplius (N6) được đánh dấu bằng sự kéo dài của phần sau của cơ thể và các gai lông tăng thêm một cặp thành 7+7 với các gai trên các gai dài hơn (Kitani, 1986). Hơn nữa, giai đoạn zoea của hình dáng cơ thể đã có sự thay đổi rõ rệt. Phần trước của cơ thể được bao phủ bởi mai, phần sau được chia thành ngực 6 đốt và bụng không đốt.

Phân tích ký sinh trùng

Phân tích ký sinh trùng sử dụng Phản ứng chuỗi polymerase (PCR), được thực hiện tại Trung tâm kiểm dịch Makassar. Kết quả phân tích ký sinh trùng cho kết quả âm tính (Bảng 4). Một ưu điểm của tôm thẻ chân trắng là khả năng chống chọi với bệnh tật.

Bảng 4. Các loại ký sinh trùng thường nhiễm vào ấu trùng tôm

Kết quả phân tích PCR ký sinh trùng gây bệnh ở ấu trùng tôm (Bảng 4) cho thấy ở giai đoạn mysis và PL10 của ấu trùng tôm không phát hiện ký sinh trùng (âm tính), như trường hợp trong môi trường nước cũng không tìm thấy bất kỳ ký sinh trùng. Điều này cho thấy các kỹ thuật quản lý nước vốn là nguồn lây nhiễm bệnh tiềm tàng có thể ngăn ngừa hoặc khử trùng thành công nước khỏi ký sinh trùng có thể gây bệnh cho ấu trùng tôm. Việc sử dụng bức xạ tia cực tím (UV) rất hiệu quả trong việc vô hiệu hóa các vi sinh vật khác nhau mà không để lại dư lượng có hại. Việc sử dụng ozon hóa cũng đã được sử dụng rộng rãi để khử trùng môi trường nuôi cá và tôm, đặc biệt là trong ngành nuôi trồng thủy sản quy mô lớn.

Chất lượng nước

Kết quả đo các thông số chất lượng nước của môi trường nuôi ấu trùng tôm thẻ chân trắng trong quá trình nuôi (Bảng 5). Các thông số chất lượng nước được đo là nhiệt độ, độ mặn, pH và oxy hòa tan. Căn cứ vào Bảng 5, kết quả đo các thông số chất lượng nước phù hợp với giá trị tiêu chuẩn chất lượng nước và nằm trong khoảng tối ưu để kích thích sự phát triển của ấu trùng tôm thẻ chân trắng. Giá trị thông số chất lượng nước đối với môi trường nuôi ấu trùng là nhiệt độ trong khoảng 27,5-29,5°C, kết quả đo nhiệt độ tối thiểu thu được nằm dưới khoảng tối ưu trong đó nhiệt độ tối ưu cho ấu trùng tôm thẻ chân trắng phát triển là từ 28- 32˚C, điều này không ảnh hưởng đáng kể đến sự phát triển của ấu trùng nuôi. Nhiệt độ có ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình trao đổi chất của tôm, ở nhiệt độ cao quá trình trao đổi chất của tôm được đẩy nhanh, trong khi ở nhiệt độ thấp hơn quá trình trao đổi chất bị chậm lại. Nhiệt độ là một yếu tố hạn chế, nếu nhiệt độ giảm hoặc tăng sẽ ảnh hưởng đến nồng độ oxy hòa tan (DO) và một số thông số khác sẽ bị ảnh hưởng gián tiếp.

Bảng 5. Kết quả các thông số chất lượng nước nuôi ấu trùng tôm thẻ chân trắng

Độ pH trong bể nuôi ấu trùng tôm thẻ chân trắng dao động từ 7,1 đến 8,57, nằm trong khoảng tối ưu cho sự phát triển của ấu trùng (7-8,5 theo PERMEN-KP No.75 và 8,3 theo Duan và cộng sự). Giá trị pH thấp (dưới 6,9) hoặc cao (trên 9,7) có thể gây căng thẳng cho tôm, ảnh hưởng đến khả năng tiêu hóa và hấp thụ dinh dưỡng.

Độ mặn trong quá trình nuôi ấu trùng dao động từ 26 đến 34 ppt, phù hợp cho hoạt động nuôi tôm thẻ chân trắng (26-35 ppt theo PERMEN-KP số 75 và 0,5-45 ppt theo Umami et al.). Độ mặn đóng vai trò quan trọng trong quá trình điều hòa thẩm thấu và lột xác của tôm. Mức độ mặn quá cao có thể làm giảm tốc độ tăng trưởng của tôm do ảnh hưởng đến quá trình điều hòa thẩm thấu. Mức oxy hòa tan (DO) trong quá trình nuôi ấu trùng dao động từ 4,24 đến 7,22 mg/L, nằm trong phạm vi tối ưu cho ấu trùng (lớn hơn 4 mg/L theo PERMEN-KP số 75 DO thấp (dưới 3 mg/L) có thể gây stress và chết tôm. DO cần thiết cho quá trình hô hấp và các hoạt động trao đổi chất của ấu trùng. Độ bão hòa oxy trong nước bị ảnh hưởng bởi nhiệt độ nước, nhiệt độ càng cao thì nồng độ DO càng giảm.

Kết luận

Sản xuất ấu trùng tôm thẻ chân trắng F1 sạch bệnh là một quá trình đòi hỏi sự tỉ mỉ và kỹ thuật cao. Một trong những yếu tố quan trọng nhất trong quá trình này là chiến lược cung cấp thực vật phù du cho ấu trùng ở giai đoạn đầu (từ Nauplii-6 đến zoea). Giai đoạn đầu là thời điểm quan trọng để ấu trùng bắt đầu ăn thức ăn từ bên ngoài (ăn ngoại sinh) và phát triển hệ thống tiêu hóa. Việc cung cấp đầy đủ thực vật phù du phù hợp sẽ giúp ấu trùng có đủ dinh dưỡng để phát triển khỏe mạnh và đạt tỷ lệ sống cao. Nghiên cứu cho thấy rằng chiến lược cung cấp thực vật phù du cho ấu trùng tôm thẻ chân trắng F1 có thể giúp đạt tỷ lệ sống lên đến 90%. Điều này cho thấy tầm quan trọng của việc cung cấp thức ăn phù hợp cho ấu trùng trong giai đoạn đầu của quá trình nuôi. Tuy nhiên, thành công của chiến lược này không chỉ phụ thuộc vào việc cung cấp thực vật phù du. Các yếu tố môi trường khác như cho ăn nhân tạo, kiểm soát chất lượng nước cũng đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo sự phát triển khỏe mạnh của ấu trùng.

Theo Muhammad Ikbal Illijas, Luqman Saleh, Nur Rahmawaty Arma, Andriani, Rahmi Mulyani

Nguồn: https://www.academia.edu/109989618/The_Strategy_of_Phytoplankton_Administration_in_Larval_Rearing_to_Improve_the_Survival_Rate_of_White_Shrimp_Penaeus_vannamei_Larvae_of_F1_and_Free_Pathogen

Biên dịch: Nguyễn Thi Quyên – Tôm Giống Gia Hóa Bình Minh

TÔM GIỐNG GIA HÓA – CHÌA KHÓA THÀNH CÔNG

Xem thêm:

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *