• Việt Nam là một trong những quốc gia dễ bị tổn thương nhất trước tác động của biến đổi khí hậu theo báo cáo gần đây của Ủy ban Quốc tế về Biến đổi Khí hậu.
  • Sự đa dạng về mặt địa lý đồng nghĩa với việc nó bị ảnh hưởng bởi bão, lở đất, lũ lụt và hạn hán, các hiện tượng thời tiết dự kiến ​​sẽ tồi tệ hơn trong những năm tới.
  • Nghiên cứu đã phát hiện ra rằng Việt Nam cũng là nơi tiềm năng có năng lượng tái tạo dồi dào, có thể giúp giảm bớt một số mối đe dọa này.

HỒ CHÍ MINH – Đầu tháng này, Ủy ban liên chính phủ về biến đổi khí hậu (IPCC) đã công bố một báo cáo mới về tác động tiềm tàng của việc nhiệt độ toàn cầu tăng 1,5ºC so với mức trung bình thời kỳ tiền công nghiệp. Báo cáo cho thấy các sự kiện khí hậu lớn, gây bất ổn có thể bắt đầu tác động đến xã hội toàn cầu ngay sau năm 2040, ảnh hưởng đến cuộc sống của hầu hết người dân hiện nay.

Trong bản báo cáo, được trình bày trước chính phủ Việt Nam tại Hà Nội vào ngày 10 tháng 10, Việt Nam được nêu tên trong số 9 quốc gia mà ít nhất 50 triệu người sẽ phải hứng chịu tác động của mực nước biển dâng cao và các cơn bão mạnh hơn, cùng những mối nguy hiểm khác.

“Các mối đe dọa cấp bách nhất mà Việt Nam phải đối mặt trong vài thập kỷ tới là Việt Nam nằm trong số các quốc gia dễ bị tổn thương nhất trước biến đổi khí hậu,” ông Đào Xuân Lai, Trưởng ban Biến đổi khí hậu và Môi trường tại văn phòng Chương trình Phát triển Liên hợp quốc tại Việt Nam, cho biết tại một cuộc phỏng vấn. “Sẽ tiếp tục có những hiện tượng thời tiết cực đoan như hiện tại, nhưng đến nhanh hơn dự đoán, dữ dội hơn, thường xuyên hơn và khó dự đoán hơn.”

Vị trí địa lý của Việt Nam khiến nó dễ bị ảnh hưởng bởi một số thiên tai. Hầu hết đường bờ biển dài 1.800 dặm của nó hướng ra Biển Đông, nơi có nhiều cơn bão nhiệt đới và bão đi qua hàng năm. Vùng núi xa phía Bắc dễ bị sạt lở đất và lũ quét, trong khi đồng bằng sông Cửu Long bằng phẳng ở sâu phía Nam là một trong những khu vực dễ bị tổn thương nhất trên thế giới do mực nước biển dâng cao.

Cảnh quan sông Cửu Long. Hình ảnh của WWF-Campuchia.

Ông Lai tin rằng thực tế này đặt ra những thách thức lớn liên quan đến biến đổi khí hậu đối với Việt Nam.

“Năm 2017, cơn bão cuối cùng của mùa bão đến vào cuối tháng 11, vốn thường là mùa khô trong quá khứ” ông nói. “Vì vậy, nó kéo theo gió rất mạnh và mưa lớn, gây ra nhiều vụ lở đất và lũ lụt ở các khu vực khác nhau. Vì nó đến vào một mùa khác, mọi người đã không chuẩn bị sẵn sàng và thiệt hại rất lớn.”

Đồng bằng sông Cửu Long dễ bị tổn thương là một vấn đề đặc biệt quan trọng do khả năng kinh tế. Theo UNDP, khu vực màu mỡ này sản xuất khoảng 70% sản phẩm nông nghiệp của Việt Nam, bao gồm khoảng 55% sản lượng gạo và 70% sản lượng nuôi trồng thủy sản. Hầu hết các sản phẩm này được xuất khẩu và năm 2017, xuất khẩu nông nghiệp đã mang về cho Việt Nam 37 tỷ USD, gần 17% tổng GDP.

“Vì vậy, phát triển nông nghiệp ở Việt Nam không chỉ giúp đảm bảo an ninh lương thực của Việt Nam mà còn góp phần đảm bảo an ninh lương thực toàn cầu” ông Lai giải thích. “Với biến đổi khí hậu và nước biển dâng, dự đoán là nếu mực nước biển tăng lên tới 3,3 feet, 40% diện tích Đồng bằng sông Cửu Long sẽ bị ngập, do đó chúng ta sẽ mất 40% hoặc thậm chí nhiều hơn sản lượng nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản.”

Một đợt hạn hán nghiêm trọng xảy ra ở khu vực này vào năm 2016 đã đưa ra cái nhìn sắc về những gì sẽ xảy ra nếu biến đổi khí hậu tiếp tục không suy giảm. Không có nước mưa trong lành, biển tràn vào nhiều sông rạch chằng chịt xuyên qua đồng bằng.

“Ở một số con sông, nước mặn xâm nhập sâu tới 56 dặm tính từ biển” Lai nói. “Ở tỉnh Bến Tre, về cơ bản toàn tỉnh không có nước ngọt. Vì vậy, người dân không có nước sinh hoạt, không có nước cho gia súc, mọi hoạt động kinh tế đều bị ảnh hưởng. Rất nhiều thứ đã bị ảnh hưởng và mọi người buộc phải di chuyển.”

Trong khi đó, những ngọn núi phía Bắc gây ra những mối nguy hiểm ngày càng tăng đối với những người sống ở đó. Ông Lai giải thích: “Tại ít nhất 15 tỉnh phía Bắc giáp biên giới với Trung Quốc, mưa lớn thường gây ra sạt lở đất và những vụ sạt lở này hầu như không thể dự đoán được. Đó là sự kết hợp của rất nhiều yếu tố, bao gồm nạn phá rừng và các hoạt động nông nghiệp, nhưng bây giờ mưa lớn có thể ập đến bất cứ lúc nào, rất lớn và rất tập trung. Chúng tôi không thể dự đoán con dốc hay ngọn núi nào sẽ biến thành một vụ lở đất.”

Do đó, chuyên gia của UNDP lập luận, mọi người cần nhận thức rõ hơn về những mối nguy hiểm hiện hữu ở từng địa điểm cụ thể, và cuối cùng đưa ra quyết định liệu việc ở lại chỗ đó có phù hợp hay không khi khí hậu thay đổi.

“Họ phải quyết định xem họ có tiếp tục ở lại một khu vực nhất định mà nhiều thế hệ đã ở lại hay không,” Lai chia sẻ. “Bây giờ, bối cảnh đã hoàn toàn thay đổi.”

Melissa Merryweather, Giám đốc Green Consult-Asia và Chủ tịch Hội đồng Công trình Xanh Việt Nam, tin rằng các thành phố lớn của Việt Nam có nguy cơ lớn nhất nếu những phát hiện của IPCC thành hiện thực. “Đồng bằng sông Cửu Long rất độc đáo, là một trong số ít nơi trên thế giới có mùa lũ thường xuyên và người dân đã sống hàng thế kỷ ở khu vực đó và thích nghi theo mùa” cô giải thích.

Cô ấy còn nói: “Nhưng khi bạn sống ở thành phố, mọi thứ sẽ thay đổi đáng kể bởi vì những sự thích nghi ít ỏi ở nông thôn vẫn như cũ.”

Các tấm pin mặt trời trên đỉnh một cơ sở của Intel tại Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. Hình ảnh: Intel qua Flickr.

Thành phố Hồ Chí Minh, khu vực đô thị và động lực kinh tế lớn nhất của Việt Nam, là mối quan tâm đặc biệt, vì sự tăng trưởng bùng nổ đã khiến các nhà quy hoạch phát triển các khu vực đầm lầy ở phía Nam và phía Đông mà trước đây đóng vai trò là vùng ngập lũ.

“Gần đây, do thành phố đang mở rộng và vì giá đất rẻ nên hàng tỷ tỷ đô la đầu tư đang đổ vào những khu vực này”- Merryweather nói. “Đây là nơi nó trở thành một yếu tố thay đổi lớn.”

Sông Sài Gòn, một tuyến đường thủy nông và rộng chảy qua thành phố, đã gây ra triều cường ở một số quận, khiến các con đường và cơ sở kinh doanh bị ngập lụt ngay cả khi không có mưa. Vấn đề này dự kiến ​​sẽ trở nên trầm trọng hơn do mực nước biển dâng.

“Vì vậy, khi kết hợp tất cả những điều này, thực tế là đã đầu tư hàng tỷ đô la vào các vùng trũng thấp và các khu chống lũ lụt đang được xây dựng, khiến chúng ta mất đi lợi ích mà chúng cung cấp trong chu kỳ lũ lụt và sau đó với mực nước biển dâng sẽ dẫn đến thiên tai”- Merryweather nói.

Trong khi nhiều thông tin liên quan đến biến đổi khí hậu ở Việt Nam rất nghiêm trọng, thì vẫn có lý do để hy vọng. Lai giải thích rằng các nghiên cứu của UNDP đã phát hiện ra rằng Việt Nam vẫn có tiềm năng lớn về năng lượng tái tạo, sự phát triển của năng lượng này có thể giúp bù đắp thiệt hại do khí thải nhà kính gây ra.

“Chúng tôi thấy rằng Việt Nam có sẵn tới 85.000 megawatt điện mặt trời và 21.000 megawatt điện gió” ông chia sẻ. “Nếu chúng ta kết hợp hai con số này và nếu Việt Nam có thể phát triển tất cả chúng trước năm 2050 chẳng hạn, và chúng ta so sánh nó với con số tổng điện năng sẽ được lắp đặt ở Việt Nam vào năm 2030, là 130.000 megawatt, thì nó thực sự gần bằng.”

Một nông dân trẻ kiểm tra tôm của mình tại một trang trại nuôi tôm thâm canh ở tỉnh Long An, Việt Nam. Hình ảnh của Zoe Osborne cho Mongabay.

Điều này sẽ cần đầu tư lớn từ cả khu vực công và tư nhân, nhưng năng lượng luôn sẵn sàng để sử dụng.

Trong khi đó, thông điệp của Lai dành cho các cá nhân cần phải được tập huấn.

“Mọi người cần nhận thức rõ hơn và nâng cao kiến ​​thức về biến đổi khí hậu” ông Lai nói. “Nó đang đến nhanh hơn và trở nên khó dự đoán hơn, vì vậy chúng ta cần chuẩn bị và sử dụng kiến ​​thức đó để có thể bảo vệ chính mình, người thân và mọi người.”

Theo Michael Tatarski

Nguồn: https://news.mongabay.com/2018/10/new-climate-change-report-highlights-grave-dangers-for-vietnam/

Biên dịch: Nguyễn Thị Quyên – Tôm Giống Gia Hóa Bình Minh

TÔM GIỐNG GIA HÓA- CHÌA KHÓA THÀNH CÔNG 

Xem thêm:

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *