Đây là thông tin hiển thị trên website, KHÔNG dùng để quét mã QR. Vui lòng liên hệ 1900 86 68 69 nếu link QR dẫn đến trang web này.
Đây là thông tin hiển thị trên website, KHÔNG dùng để quét mã QR. Vui lòng liên hệ 1900 86 68 69 nếu link QR dẫn đến trang web này.

Tóm tắt

Các mẫu tôm thẻ chân trắng Penaeus vannamei, được thu định kỳ hằng tháng từ các ao có độ mặn 0 ppt nằm ở Tiruvannamalai và Villupuram các quận ở Tamil Nadu, Ấn Độ để sàng lọc mầm bệnh do virus và nấm. Tổng cộng, tất cả 130 mẫu tôm được thu từ 67 ao nước ngọt và được sàng lọc virus hội chứng đốm trắng (WSSV), virus hoại tử cơ (IMNV), nhiễm trùng dưới vỏ và virus hoại tử cơ quan tạo máu (IHHNV) và Enterocytozoon hepatopenaei (EHP) bằng PCR và RT-PCR sử dụng hệ thống mồi đặc hiệu. Trong số các mẫu được sàng lọc, một mẫu được phát hiện dương tính với WSSV, hai mẫu dương tính với IMNV và hai mẫu dương tính với EHP. Không có mẫu nào dương tính với IHHNV. Loại virus WSSV được phát hiện trong mẫu là một chủng WSSV mới và có độc lực cao. Mẫu vật được lấy từ hồ tôm nuôi nước ngọt nhiễm đốm trắng WSSV hoặc nhiễm IMNV bị chết hoàn toàn khi nuôi thực nghiệm. Kết quả PCR và RT-PCR cho thấy sự hiện diện của WSSV và IMNV trong các cơ quan khác nhau ở tôm nhiễm bệnh. Không có biểu hiện lâm sàng nào được quan sát thấy khi tôm được cảm nhiễm EHP, mặc dù kết quả PCR cho thấy sự hiện diện của EHP trong tôm.

Giới thiệu

Tôm thẻ chân trắng, Penaeus vannamei, là một loài tôm phổ biến trên toàn thế giới, nhưng việc sản xuất lại gặp khó khăn bởi các vấn đề môi trường và bệnh lý, dẫn đến thiệt hại đáng kể kinh tế. Virus, vi khuẩn và nấm, là nguyên nhân chính dẫn tới thiệt hại lớn trên tôm nuôi và cả nguồn tôm tự nhiên. Các biện pháp kiểm soát khác nhau như duy trì các chỉ tiêu môi trường nước, nguồn giống sạch bệnh và tăng cường sức đề kháng bằng thuốc kích thích miễn dịch trộn cho ăn được theo dõi đã giúp ngăn ngừa các bệnh trong quá trình nuôi. (Balasubramanian và cộng sự, 2007; Lightner, 2003; Rajeshkumar và cộng sự, 2009). Ngoài các biện phát nêu trên, người nuôi tôm ở một số nơi đã bắt đầu nuôi tôm biển trong môi trường nước ngọt sau khi nguồn giống được thuần hóa để tránh các loại bệnh, đặt biệt là đốm trắng (WSSV; Boyd & Thunjai, 2003; Saoud và cộng sự, 2003; Green, 2008; Jithendran và cộng sự, 2021; Sánchez-Barajas và cộng sự, 2009). Ở Ấn Độ, vùng nuôi tôm sú đã được thay thế bằng nuôi tôm thẻ chân trắng trong các ao nuôi để tránh nhiễm đốm trắng WSSV. Về sau vùng nuôi tôm thẻ đã được phổ biến thêm ở một số vùng nước ngọt của Ấn Độ để tăng lên lợi nhuận.

Việc bùng phát các bệnh truyền nhiễm do virus, vi khuẩn và nấm gây ra trên tôm thẻ chân trắng nuôi trong nước mặn đã được cho là một vấn đề nghiêm trọng và tác động nghiêm trọng gây sụt giảm kinh tế thế giới nói chung và Ấn Độ nói riêng (Adams & Thompson, 2008; Kalaimani và cộng sự, 2013; Sano & Fukuda, 1987; Singaravel và cộng sự, 2021; Wongteerasupaya và cộng sự, 1995). Cho đến hiện tại, virus gây bệnh đầu vàng (YHV) là virut duy nhất được phát hiện khi tôm thẻ được nuôi trong môi trường nước ngọt. Vì vậy, chúng tôi đã mở rộng chương trình theo dõi do National Fisheries Development Board (NFDB) được tài trợ bởi chính phủ Ấn Độ để theo dõi sự bùng phát dịch bệnh ở ao nuôi trồng thủy sản tôm thẻ chân trắng trong môi trường sống nước ngọt, mở rộng phạm vi thí nghiệm. Trong thí nghiệm, mẫu tôm nuôi ở môi trường nước ngọt được thu thập hàng tháng đã được sàng lọc bằng PCR và RT-PCR đối với WSSV, IHHNV, virus gây bệnh hoại tử cơ (IMNV) và Enterocytozoon hepatopenaei (EHP).

Vật liệu và phương pháp nghiên cứu:

2.1 Vật liệu thí nghiệm

Mẫu tôm thẻ thu thập từ nguồn tôm được nuôi trong môi trường nước ngọt với độ mặn 0 ppt nằm ở Villupuram và các quận Tiruvannamalai của bang Tamil Nadu dọc theo bờ biển phía đông của Ấn Độ từ tháng 10/2018 đến 3/2021. Tôm có các biểu hiện lâm sàng như đỏ thân, bơi lờ đờ, còi và đục cơ được lấy mẫu, bảo quản trong nước đá và vận chuyển đến phòng thí nghiệm để sàng lọc mầm bệnh. Dữ liệu được theo dõi bao gồm ngày thu mẫu, cỡ tôm, tỷ lệ chết, số lượng mẫu và ngày nuôi. Các chỉ số hóa lý khác nhau của nước ao được xác định trong thời gian lấy mẫu. Nhiệt độ, pH, độ mặn sử dụng máy đo độ mặn và oxy hòa tan bằng phương pháp Winkler (Strickland & Parsons, 1968) được xác định tại chổ. Nguồn nước ao nuôi được lấy từng nguồn nước giếng, cách biển 130km và ngọt quanh năm.

2.2 Chuẩn bị mẫu vật

Sau khi mang mẫu đến phòng thí nghiệm, tôm đã được rã đông, rửa sạch và giải phẫu trong điều kiện vô trùng để thu thập các nội quan khác nhau để phân tích PCR và RT-PCR. Các cơ quan được thu thập bao gồm gan tụy và ruột để phát hiện EHP; mang, mô đầu và cơ bụng để phát hiện WSSV và IMNV. Các cơ quan thu thập từ tôm được đồng nhất với nhau trong dung dịch đệm NTE (0,2 M NaCl, 0,02 M Tris – HCl và 0,02 M EDTA, pH 7,4) sử dụng chày và cối. Hỗn hợp dịch mô được chuẩn bị theo tỷ lệ 1:10 (w / v) sử dụng bộ đệm NTE. Huyền phù mô được ly tâm mỗi lần 3000 g trong 15 phút ở 4 ° C. Sau khi ly tâm, lấy 8000g phần nổi ở trên ly tâm tiếp trong 20 phút ở 4 ° C. Phần nổi phía trên được thu thập và bảo quản ở -20 ° C cho xét nghiệm WSSV, IHHNV, IMNV và EHP bằng phương pháp PCR và RT-PCR.

2.3 Phân tích PCR và RT-PCR

Axit nucleic (DNA và RNA) chiết xuất huyền phù mô được chiết xuất từ các mẫu tôm bằng cách sử dụng các quy trình chiết tiêu chuẩn. DNA chiết xuất từ mô được giữ trong bộ đệm NTE và được sử dụng làm mẫu để phát hiện WSSV, IHHNV và EHP bằng PCR. Để phát hiện IMNV trong các mẫu huyền phù mô, ARN được chiết xuất bằng cách trộn các mẫu với TRIzol, và ARN được chiết xuất theo quy trình của nhà sản xuất (Invitrogen, Hoa Kỳ). ARN thu được hòa tan trong dung dịch đệm NTE (10 mmol / L Tris – HCl, 1 mmol / L EDTA, pH 7,5) và sử dụng để phát hiện IMNV bằng RT-PCR.

Đoạn mồi được sử dụng để phát hiện WSSV dựa trên nucleotide chuỗi WSSV có sẵn tại GenBank được sự dụng (Mã số truy cập: AF380842) (van Hulten và cộng sự, 2000; Yoganandhan và cộng sự, 2004). Đoạn mồi được thiết kế bởi Sivakumar và cộng sự (2018) để xác định các chủng khác nhau của virus WSSV. Đoạn mồi được sử dụng để phát hiện IHHNV theo Hou và cộng sự, 2009. Phát hiện của EHP sử dụng đoạn mồi do Tang và cộng sự (2015). Các đoạn mồi do Poulos và Lightner (2006) được sử dụng để phát hiện IMNV. Các đặc điểm đoạn mồi như nhiệt độ ủ và kích thước của tần số khuếch đại được cho trong Bảng 1. Dung dịch xét nghiệm PCR bao gồm 1 μl DNA đoạn mẫu, 1 mM đoạn mồi đặc trưng cho WSSV, IHHNV hoặc EHP, 200 mM deoxynucleotide triphosphat và 1,25 U của DNA Taq polymerase trong đệm PCR được cung cấp với một bộ dụng cụ có bán trên thị trường. Xét nghiệm PCR virus WSSV, IHHNV và EHP được thực hiện riêng biệt. Các ống PCR với hỗn hợp phản ứng được giữ trong máy tuần hoàn nhiệt tự động với chương trình mặc định 1 phút ở 95 ° C để biến tính, 1 phút ở 58 ° C để ủ và 1 phút ở 72 ° C để kéo dài. Chu trình phản ứng này được chạy lặp lại 35 lần sau đó kết thúc vòng lặp trong 5 phút ở 72°C. Kết quả PCR được khuyết đại bằng phương pháp điện di trong dung dịch 0.8% agarose gels được nhuộm bằng ethidium bromide và được hình ảnh hóa bởi quá trình chiếu tia cực tím. Để phát hiện IMNV trong mẫu được thực hiện bằng phương pháp RT-PCR theo giao thức phiên mã ngược và khuyết đại. Để tổng hợp cDNA, RT được thực hiện trong phản ứng 20 μl có chứa 2 X hỗn hợp chính chuyển đổi với men phiên mã ngược MMLV, oligo 4 μm (dT) sơn lót và 1 mM dNTP. Phản ứng RT thực hiện ở 37°C trong 90 phút và bất hoạt ở 95°C trong 3 phút. Sau khi tổng hợp cDNA, PCR được thực hiện trong một hỗn hợp phản ứng 20 μl chứa 2 μl cDNA, 1 μmol / L của đoạn mồi đặc trưng cho IMNV, 200 μmol/ L deoxynucleotide triphosphat và 1,25 IU Taq DNA polymerase có sẵn trong bộ kit. Cuối cùng, kết quả RT-PCR được khuyết đại như trên.

Bảng 1. Chi tiết bộ mồi được sử dụng để phát hiện mầm bệnh virus và nấm trong các mẫu tôm được thu thập từ môi trường nước ngọt trong quá trình giám sát

Chi tiết bộ mồi được sử dụng để phát hiện mầm bệnh virus và nấm trong các mẫu tôm được thu thập từ môi trường nước ngọt trong quá trình giám sát

2.4 Thực nghiệm nhiễm trùng

Các mẫu tôm thẻ chân trắng P. vannamei được nuôi trong môi trường nước ngọt cho kết quả dương tính với WSSV, IMNV hoặc EHP bằng PCR và RT-PCR khi sử dụng đoạn mồi của Sahul Hameed và cộng sự (1998), Sahul Hameed và cộng sự (2017) and Santhosh kumar (2016). Tóm lại, các cơ quan như mang, mô đầu và mô cơ đều dương tính với WSSV hoặc IMNV. P. vannamei nuôi nước ngọt được giải phẫu và nghiền nhỏ để làm chất cấy cho các nghiên cứu lây nhiễm. 10% (w/v) chất lắng kết hợp với dung dịch đệm NTE thành hỗn hợp đồng chất. Ly tâm 3000g hỗn hợp ở 4oC trong 20 phút. Thu 8000g phẩn nổi ly tâm tiếp ở 4oC trong 30 phút. Phẩn nổi thu được cuối cùng lọc qua lưới 0.4mm rồi bảo quản ở -20oC sử dụng cho nghiên cứu. Để chuẩn bị chất cấy EHP, gan tụy và ruột được lấy từ tôm đã dương tính với EHP và thực hiện như mô tả ở trên trừ bước lọc qua bộ lọc 0,4 mm. Sự hiện diện của mầm bệnh trong chất cấy đã được xác nhận bằng PCR đối với WSSV và EHP, và RT-PCR cho IMNV.

Đối với các nghiên cứu về khả năng lây nhiễm, P. vannamei khỏe mạnh (trọng lượng cơ thể 10–12g), được thu thập từ nuôi thương phẩm ao nằm ở Quận Thiruvallur, Tamil Nadu, Ấn Độ. Tôm được thích nghi nuôi trong bể sử dụng hệ thống lọc sinh học, được nuôi trong phòng nhiệc độ 27-30oC độ mặn 10-15‰, cho ăn bằng thức ăn viên, mỗi ngày thay 50% nước trong 1 tuần trước khi thí nghiệm. Khi sàng lọc tôm để tìm WSSV, IHHNV, IMNV và EHP bằng PCR và RT-PCR sẽ làm chết tôm, do đó việc sử dụng con tôm đó để làm thí nghiệm về khả năng lây nhiễm là không thể. Vì vậy, chọn ngẫu nhiên 5 con tôm trong đàn thực hiện sàn lọc WSSV, IHHNV, IMNV và EHP bằng PCR và RT-PCR và đưa ra kết quả cho đàn tôm. Độc lực WSSV, IMNV và EHP đã được kiểm tra bằng cách tiêm vào cơ chất cấy được chuẩn bị từ WSSV, IMNV hoặc EHP dương tính tôm thu từ ao nước ngọt. Đối với tiêm cơ, tôm khỏe mạnh được nuôi trong bể (5 con một bể) ở nhiệt độ phòng với sục khí liên tục. Tôm thí nghiệm được tiêm vào cơ ở chân bụng thứ hai có nhiễm vi khuẩn WSSV, IMNV hoặc EHP (20 μl mỗi tôm) sử dụng ống tiêm insulin 1ml. Tôm sau khi tiêm chất cấy được theo dõi 1 ngày 2 lần để theo dõi các dấu hiệu của bệnh, tỉ lệ chết. Thí nghiệm thực hiện lặp lại 3 lần. Những con tôm sắp chết và sống được thu thập để kiểm tra sự hiện diện của WSSV, IMNV hoặc EHP bằng PCR và RT-PCR.

3/ Kết luận

Chương trình giám sát quốc gia dịch bệnh động vật thủy sản đã được thực hiện để giám sát sự bùng phát dịch bệnh trong hệ thống nuôi trồng thủy sản ở Ấn Độ. P. vannamei cùng với các mẫu nước được thu thập hàng tháng từ nước ngọt ao có độ mặn 0 ppt ở những nơi khác nhau trong các quận Tiruvannamalai và Villupuram ở Tamil Nadu. Trong giai đoạn giám sát, 130 mẫu tôm được thu thập từ 67 ao nước ngọt và được sàng lọc để tìm WSSV, IMNV, IHHNV và EHP bằng PCR và RT-PCR sử dụng tác nhân gây bệnh cụ thể (Bảng 2). Kích thước tôm thu dao động từ 0,1 đến 15 g và từ 20 đến 93 ngày nuôi. Các dấu hiệu lâm sàng quan sát được ở tôm nhiễm bệnh trong ao nước ngọt bao gồm bỏ ăn, lờ đờ, đỏ thân, còi và đục cơ phần đuôi (Hình 1). Tỷ lệ chết của tôm ở những ao dịch bệnh dao động từ 20% đến 50%.

Tất cả các mẫu tôm được thu thập từ các ao nước ngọt trong thời gian giám sát đã được sàng lọc để tìm WSSV, IHHNV và EHP bằng PCR bước đơn và IMNV bằng RT-PCR. Một dải nổi bật là 615 bp đã được quan sát thấy ở tôm cho thấy dương tính sang WSSV (Hình 2a), trong khi dải PCR 510 bp được quan sát trong gel agarose ở EHP dương tính mẫu tôm (Hình 2b). Dương tính với IMNV mẫu tôm cho thấy RT-PCR dải 328 bp (Hình 2c). Tổng số 128 mẫu được thu thập từ các ao nước ngọt đã được sàng lọc để tìm WSSV, 119 mẫu cho IHHNV, 13 mẫu cho IMNV và 126 mẫu cho EHP. Trong số các mẫu được sàng lọc WSSV, một mẫu được phát hiện dương tính với WSSV, hai mẫu cho thấy dương tính với IMNV và hai mẫu dương tính với EHP. Không mẫu cho thấy dương tính với IHHNV (Bảng 2). Đã phát hiện WSSV trong mẫu được tìm thấy là một dòng WSSV mới. Kết quả PCR sử dụng đoạn mồi đặc hiệu được thiết kế bởi Sivakumar et al. (2018) cho thấy khuếch đại 402 bp cho WSSV cũ, hiện tại nghiên cứu chủng WSSV đã khuếch đại kích thước là 2748 bp với cùng một loại mồi (Hình 3). EHP được tìm thấy trong hai ao nước ngọt ở quận Tiruvannamalai trong khi cả hai mầm bệnh WSSV và IMNV đều được phát hiện trên tôm mẫu tại các ao nước ngọt ở quận Villupuram. Trong quá trình theo dõi không ghi nhận được hiện tượng lây nhiễm. Thực nghiệm khả năng gây bệnh đã được thực hiện để kiểm tra độc lực WSSV, IMNV và EHP phân lập từ P. vannamei được nuôi trong nước ngọt bằng cách tiêm cơ và kết quả được đưa ra trong Bảng 3. WSSV gây ra 100% tỷ lệ tử vong tiêm cơ P. vannamei vào 3 ngày sau khi nhiễm bệnh trong khi IMNV gây ra 100% tử vong ở 15 ngày. Không có tỷ lệ chết nào được quan sát thấy ở P. vannamei được tiêm EHP. Dấu hiệu lâm sàng trong thực nghiệm tôm bị nhiễm WSSV bao gồm lờ đờ, đỏ chân bơi, đốm đen. Đục cơ và đỏ thân đã được quan sát trong thực nghiệm tôm nhiễm IMNV. Kết quả PCR và RT-PCR cho thấy dải tần nổi bật 615 bp trong các cơ quan khác nhau của thực nghiệm tôm nhiễm WSSV (Hình 4a) và 328 bp trong thực nghiệm tôm nhiễm IMNV (Hình 4b), tương ứng. Không có dấu hiệu lâm sàng đã được quan sát trong thực nghiệm tiêm EHP, mặc dù kết quả PCR cho thấy dải 510 bp đối với sự hiện diện của EHP ở gan tụy, ruột, mang và tim của những con tôm bị nhiễm bệnh (Hình 4c).

Bảng 2. Giám sát dịch bệnh được thực hiện tại các ao nước ngọt nuôi tôm Penaeus vannamei nằm ở các quận khác nhau của Tamil Nadu, Ấn Độ

Giám sát dịch bệnh được thực hiện tại các ao nước ngọt nuôi tôm Penaeus vannamei nằm ở các quận khác nhau của Tamil Nadu, Ấn Độ

Tôm Penaeus vannamei nhiễm bệnh myonecrosis truyền nhiễm đỏ thân, còi và đục cơ phần đuôi thu từ ao nước ngọt có dịch bệnh bùng phát

Hình 1: Tôm Penaeus vannamei nhiễm bệnh myonecrosis truyền nhiễm đỏ thân, còi và đục cơ phần đuôi thu từ ao nước ngọt có dịch bệnh bùng phát

Phát hiện virus hội chứng đốm trắng

Hình 2. Phát hiện virus hội chứng đốm trắng

a) Enterocytozoon hepatopenaei

b) và virus hoại tử cơ truyền nhiễm

c) trong các mẫu tôm (tôm thẻ Penaeus vannamei) được thu thập từ các ao nước ngọt có dịch bệnh bùng phát. Lane M – 100 bp marker, Lane N – Đối chứng âm; Lane P – Đối chứng dương; Lane S1 and Lane S2 – Mẫu tôm từ những ao bùng phát dịch.

Agarose Gel cho thấy sự xuất hiện của chủng mới

Hình 3: Agarose Gel cho thấy sự xuất hiện của chủng mới Virus gây hội chứng đốm trắng (WSSV) được báo cáo từ tôm thẻ chân trắng nuôi trong ao nước ngọt

Bảng 3. Phần trăm chết của tôm thẻ Penaeus vannamei ở các khoảng thời gian khác nhau sau khi tiêm (tiêm cơ) với WSSV, IMNV hoặc EHP được phân lập từ tôm thẻ chân trắng được nuôi trong môi trường nước ngọt

Phần trăm chết của tôm thẻ Penaeus vannamei ở các khoảng thời gian khác nhau sau khi tiêm

 

Phát hiện virus hội chứng đốm trắng bằng PCR trong các cơ quan khác nhau của tôm thẻ Penaeus vannamei bị nhiễm bệnh thực

Hình 4:

a) Phát hiện virus hội chứng đốm trắng bằng PCR trong các cơ quan khác nhau của tôm thẻ Penaeus vannamei bị nhiễm bệnh thực M – DNA 100 bp marker; N – đối chứng âm; P – đối chứng dương; Lane 1 – mang; Lane 2 – mô đầu mềm; Lane 3 – haemolymph and Lane 4 – cơ đuôi.

b) Phát hiện virus hoại tử cơ nhiễm trùng

bằng RT-PCR trong các cơ quan khác nhau của Tôm thẻ Penaeus vannamei bị nhiễm bệnh M – DNA 100 bp marker; N – đối chứng âm; P – đối chứng dương; Lane 1 – mang; Lane 2 – mô đầu mềm; Lane 3 – cơ đuôi bụng and Lane 4 – haemolymph.

c) Phát hiện virus Enterocytozoon hepatopenaei bằng RT-PCR trong các cơ quan khác nhau của Tôm thẻ Penaeus vannamei bị nhiễm bệnh M – DNA 100 bp marker; N – đối chứng âm; P – đối chứng dương; Lane 1 – mang; Lane 2 – mô gan tuỵ; Lane 3 – haemolymph and Lane 4- ruột.

4/ Thảo luận

Nuôi tôm thẻ chân trắng trong nước ngọt đã thành công và đang được thực hiện ở các quốc gia khác nhau như Thái Lan, Trung Quốc, Hoa Kỳ, Úc, Ecuador và Mexico (Boyd & Thunjai, 2003; Green, 2008; Sánchez-Barajas và cộng sự, 2009; Saoud và cộng sự, 2003). Ở Ấn Độ, nuôi P. vannamei trong nước ngọt đang được dần dần được phổ biến vì phương pháp này mang lại nhiều doanh thu hơn và cũng tránh được các bệnh đặc biệt là lây nhiễm WSSV. Người ta cho rằng việc nuôi P. vannamei ở nước ngọt có nhiều ưu điểm bao gồm không xảy ra của các vấn đề về dịch bệnh Liao và Chien (2011). Báo cáo rằng việc nuôi P.vannamei trong nước ngọt đã được nhìn nhận dễ dàng hơn so với nuôi trong nước lợ. Sản xuất tôm thẻ chân trắng nuôi trong nước ngọt đã được tăng lên đáng kể trong các trang trại nước ngọt ở Mexico (Garcia-Ulloa, Năm 2004). Tuy nhiên, kỳ vọng về sản lượng cao của tôm thẻ chân trắng được nuôi trong nước ngọt đang dần biến mất do các vấn đề bệnh tật tương tự như nuôi trong môi trường nước lợ dần xuất hiện. Sánchez-Barajas et al., 2009 đã báo cáo sự xuất hiện của YHV ở P. vannamei nuôi trong nước ngọt. Trong nghiên cứu này, sự xuất hiện của WSSV, IMNV và EHP lần đầu tiên được báo cáo ở P. vannamei được nuôi trong nước ngọt sẽ gây tổn thất nghiêm trọng về kinh tế. Ở Ấn Độ, WSSV gây thiệt hại kinh tế to lớn mỗi năm kể từ lần xuất hiện đầu tiên vào năm 1994 (Kalaimani và cộng sự, 2013; Sahul Hameed và cộng sự, 1998). Để tránh lây nhiễm WSSV, P. vannamei đã du nhập vào Ấn Độ để giúp người nuôi tôm nuôi sú phát triển nuôi con tôm thẻ. Sau khi giới thiệu P. vannamei, việc nuôi loài này đã đem đến thành công và sản xuất đạt 747.000 tấn trong năm 2019–2020 (MPEDA, 2020). Tuy nhiên, việc sản xuất thành công tôm thẻ chân trắng đã được bị ảnh hưởng bởi WSSV, IMNV và EHP (Rajendran và cộng sự, 2016; Sahul Hameed và cộng sự, 2017; Santhosh kumar, 2016; Sivakumar và cộng sự, 2018). Sau khi đưa P. vannamei vào hệ thống nuôi tôm Ấn Độ, 10 khung đọc mở ORF đã bị xóa trong bộ gen của WSSV (Sivakumar và cộng sự, 2018). Chủng WSSV mới này được phát hiện có độc lực cao hơn so với dòng cũ và gây ra tỷ lệ chết cao, gây thiệt hại lớn kinh tế trong ngành nuôi tôm Ấn Độ. WSSV được phát hiện trong nghiên cứu hiện tại trong môi trường nước ngọt được coi là một nghiên cứu mới và điều này cho thấy sự lây lan của dòng WSSV mới vào môi trường nước ngọt. EHP và IMNV mới xuất hiện trong hệ thống nuôi tôm ở Ấn Độ và được bắt nguồn từ ao nuôi nước ngọt.

Để tránh các vấn đề bệnh tật và cũng để tận dụng nước ngọt môi trường để giúp có thêm lợi nhuận, P.vannamei đã được giới thiệu vào vùng nước ngọt ở các địa điểm khác nhau của Ấn Độ. Trước khi đưa P.vannamei vào các hệ thống nước ngọt, không có báo cáo về sự xuất hiện của mầm bệnh tôm trong môi trường nước ngọt được sử dụng để nuôi P. vannamei. Giám sát dịch bệnh nghiên cứu này được thực hiện từ năm 2018 đến năm 2021 cho thấy tỷ lệ mắc bệnh bùng phát do WSSV, IMNV và EHP ở tôm thẻ chân trắng được nuôi trong môi trường nước ngọt có thể là một thông tin mới cho tài liệu về bệnh tôm. Đầu tiên Sánchez-Barajas và cộng sự, 2009 đã báo cáo sự hiện diện của YHV ở P. vannamei được nuôi trong các hệ thống sản xuất nước ngọt. Môi trường nước ngọt được cho là không có mầm bệnh đối với tôm biển. Sự xâm nhập của mầm bệnh vào tôm hệ thống nước ngọt có thể là do nguồn nước sản xuất hậu ấu trùng của P. vannamei. WSSV gây ra tỷ lệ chết cao ở tôm càng xanh tự nhiên và tôm nuôi (Bateman và cộng sự, 2012; Baumgartner và cộng sự, 2009; Edgerton, 2004; Jiravanichpaisal và cộng sự, 2001; Sahul Hameed và cộng sự, 2000, 2001; Shi và cộng sự, 2000; Soowannayan & Phanthura, 2011). Những nghiên cứu này tiết lộ rằng WSSV duy trì độc lực của nó trong nước ngọt và gây ra tỷ lệ chết cao.

Tóm lại, dữ liệu thu được từ chương trình giám sát và các nghiên cứu về khả năng lây nhiễm thực nghiệm cho thấy khả năng xảy ra nhiễm trùng tự nhiên WSSV, IMNV và EHP ở tôm nuôi nước ngọt các môi trường. Dựa vào những phát hiện trên, nghiên cứu khuyến cáo làm sàng lọc hậu ấu trùng đúng cách đối với các mầm bệnh khác nhau bằng PCR và RT-PCR trước khi thả vào ao nước ngọt để tránh ô nhiễm môi trường nước ngọt.

Nhóm tác giả:

Biên dịch: Yến Ly – Tôm giống gia hoá Bình Minh.

Từ khoá: EHP, nước ngọt, IMNV, khả năng lây bệnh, Penaeus vannamei, WSSV

“Tôm Giống Gia Hóa – Chìa Khóa Thành Công”

Xem thêm:

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

You cannot copy content of this page