Tóm tắt
Nhiều báo cáo đã chỉ ra rằng sự phong phú của vi tảo trong ao nuôi tôm thay đổi theo sự thay đổi của các yếu tố môi trường như ánh sáng, nhiệt độ, pH, độ mặn và mức độ dinh dưỡng trong suốt thời gian nuôi tôm. Trong nghiên cứu này, thời gian nuôi tôm được chia thành ba giai đoạn (ban đầu = tuần 0–5, giữa = tuần 6–10 và cuối cùng = tuần 11–15). Các thông số vật lý và hóa học trong suốt thời gian canh tác đã được nghiên cứu và thành phần loài của vi tảo được theo dõi. Các thông số vật lý dao động rộng rãi với cường độ ánh sáng nằm trong khoảng 182,23–1278 μmol photon/ m2/ s, nhiệt độ trong khoảng 29,56°C −31,59°C, oxy hòa tan (DO) trong khoảng 4,56–8,21 mg/l, độ pH trong khoảng 7,65 –8,49 và độ mặn từ 20‰–30‰. Nồng độ Amoni (NH4+ -N), nitrit (NO2−-N), nitrat (NO3−-N) và orthophotphat (PO43−-P) trong ao ở tất cả các giai đoạn nuôi dao động lần lượt từ 0,017 đến 0,38 mg/l, 0,24 đến 2,12 mg/l, 0,06 đến 0,98 mg/l và 0,16 đến 1,93 mg/l. Kiểm định thống kê (ANOVA) cho thấy không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p <0,05) về nồng độ các chất dinh dưỡng giữa các giai đoạn canh tác. Tuy nhiên, nồng độ các chất dinh dưỡng vẫn ở mức cho phép và an toàn cho tôm nuôi. Hàm lượng Chlorophyll a được tìm thấy nằm trong khoảng từ 5,03 ± 2,17 đến 32,61 ± 0,35 μg/l trong suốt thời gian canh tác. Tổng cộng có 19 loài vi tảo được tìm thấy trong ao nuôi tôm, trong đó tảo cát đóng góp tới 72% số loài, tiếp theo là Chlorophyta (11%) và tảo lam (11%). Tuy nhiên, sự phong phú của các loài thay đổi hàng tuần trong suốt thời gian nghiên cứu. Ở giai đoạn đầu, khi chưa có tôm trong ao, Anabaena spp. và Oscillatoria spp. (Cyanophyta) là loài chiếm ưu thế, tiếp theo là Chlorella sp. và Dunaliella sp. (Chlorophyta). Khi thả tôm vào ao nuôi Amphora sp., Navicula sp., Gyrosigma sp. và Nitzschia sp. bắt đầu xuất hiện. Ở giai đoạn giữa và giai đoạn cuối của giai đoạn nuôi tôm, tảo cát là loài chiếm ưu thế. Sự lấn át của Chlorophyta (Chlorella sp.) chỉ diễn ra 2 lần, đó là vào tuần thứ 2 và 13. Một số loài vi tảo nước ven biển không xuất hiện trong ao tôm rất có thể là do chúng không chịu được các yếu tố lý hóa của môi trường khắc nghiệt. Trong nghiên cứu này, Cylindrotheca closterium được coi là loài có khả năng chống chịu tốt nhất trong số các loài vi tảo do khả năng tồn tại trong 6 tuần trong số 15 tuần nuôi.
1. Giới thiệu
Vi tảo được biết đến như một nguồn thực phẩm bổ sung quan trọng, thức ăn chăn nuôi, hợp chất hoạt tính sinh học, nhiên liệu sinh học (Borowitzka, 1999; Melis, 2002; Shimizu, 2003; Singh và cộng sự, 2005; Metzger & Largeau, 2005), và các ứng dụng xử lý sinh học (Kalin và cộng sự, 2004; Munoz & Guieysse, 2006) và cố định đạm (Vaishampayan và cộng sự, 2001). Vi tảo được coi là một ứng cử viên sáng giá để sản xuất nhiên liệu sinh học vì hàm lượng lipid cao, hiệu quả quang hợp cao, sản xuất sinh khối cao và tăng trưởng nhanh so với các loại cây trồng năng lượng khác (Chisti 2007). Các loài vi tảo có mặt trong bất kỳ vùng nước nào cả nước ngọt hoặc môi trường biển. Ao nuôi tôm, nuôi cá là một trong những nơi vi tảo phát triển rất tốt và trên diện rộng. Các thông số vật lý và hóa học của môi trường nơi vi tảo sinh sống sẽ quyết định loài nào có thể phát triển và có tỷ lệ sống tốt. Mỗi loài vi tảo đòi hỏi các chất dinh dưỡng và điều kiện vật chất cụ thể để phát triển khỏe mạnh. Ao nuôi tôm cung cấp nguồn dinh dưỡng vô tận cho vi tảo cũng như khí CO2 thải ra từ quá trình trao đổi chất của tôm. Trong ao nuôi tôm, vi tảo được tìm thấy phát triển tự nhiên và tính đa dạng cũng như phong phú thường khác nhau, tùy thuộc vào một số yếu tố môi trường như ánh sáng, nhiệt độ, pH, độ mặn và nguồn dinh dưỡng (Araújo & Garcia 2005; Alonso-Rodriguez & Páez-Osuna 2003). Vi tảo đòi hỏi nhiều loại nguyên tố hóa học nhưng quan trọng nhất là nitơ và phốt pho để tăng trưởng và sinh sản (Cremen và cộng sự 2007).
Do việc sản xuất nhiên liệu sinh học đòi hỏi một lượng lớn sinh khối vi tảo nên việc nuôi trồng vi tảo ở quy mô thương mại hiện nay rất tốn kém và không hiệu quả về mặt chi phí. Phương pháp nuôi cấy hợp vệ sinh này nhằm mục đích sản xuất sinh khối vi tảo để làm thực phẩm bổ sung, dược phẩm, thực phẩm chức năng và thức ăn cho động vật phù du trong trại giống và không kinh tế khi được sử dụng làm sản xuất sinh khối để sản xuất nhiên liệu sinh học. Vì vậy, mục tiêu là sử dụng các ao nuôi tôm làm lò phản ứng quang học tự nhiên để nuôi cấy vi tảo quy mô lớn. Khi Quy trình thao tác chuẩn (SOP) được thiết lập, phương pháp canh tác hàng loạt này sẽ không đòi hỏi chuyên môn kỹ thuật cao để vận hành và chi phí thấp do không tốn thêm chi phí cho ánh sáng, nước, CO2 và chất dinh dưỡng. Người nuôi tôm sử dụng phương pháp này sẽ có thêm thu nhập từ việc nuôi cấy vi tảo.
Cremen và cộng sự (2007) đã thực hiện một nghiên cứu để mô tả những thay đổi về chất và lượng trong cộng đồng thực vật phù du trong các ao nuôi tôm thương phẩm nhiệt đới sử dụng nước xanh (vi tảo) với các mật độ thả khác nhau. Theo nghiên cứu của họ, chlorophycaceae (chủ yếu là Nannochloropsis sp.) là loài chiếm ưu thế trong giai đoạn nuôi cấy ban đầu (1–35 ngày), phù hợp với độ mặn cao (35,7 ppt). Tảo lam nở hoa xảy ra vào giai đoạn nuôi cấy cuối cùng (84–112 hoặc 126 ngày nuôi cấy) khi độ mặn thấp (19,5 ppt) và đồng thời xảy ra quá trình tảo cát nở hoa ngắn. Yusoff và cộng sự (2002) báo cáo rằng tảo cát chiếm ưu thế và tảo lam không xuất hiện khi bắt đầu nuôi tôm. Sau 34 ngày, tảo cát giảm đáng kể trong khi tảo lam tăng lên. Tảo lam cao đáng kể trong cuối giai đoạn nuôi so với giai đoạn ban đầu. Theo Alonso-Rodriguez và Paez-Osuna (2003), trong hầu hết các ao (thâm canh và bán thâm canh), tảo lam là loài chiếm ưu thế, tiếp theo là tảo hai roi. Theo Boyd (1989), tảo cát thúc đẩy sự phát triển của tôm tốt hơn tảo lam và hầu hết các nhà quản lý trang trại nuôi tôm tin rằng tỷ lệ tảo cát cao trong cộng đồng thực vật phù du vì tảo cát là loại tảo có lợi đóng vai trò quan trọng làm nguồn thức ăn cho động vật không xương sống dưới nước. Tuy nhiên, không phải tất cả các loài vi tảo đều có lợi cho hệ sinh thái ao nuôi tôm.
Theo dõi các thông số hóa lý và sự phong phú của vi tảo trong ao nuôi tôm sẽ giúp chúng ta hiểu được các yếu tố kiểm soát sự hiện diện (thúc đẩy) hoặc vắng mặt (ức chế) của một loài vi tảo nhất định. Yusoff và cộng sự (2002) tuyên bố rằng sự xuất hiện của các loài vi tảo như tảo cát trong ao nuôi tôm có thể là tạm thời trước khi vi khuẩn lam thay thế, loài này chiếm ưu thế trong ao trong một thời gian dài hơn vì sự gia tăng nồng độ chất dinh dưỡng trong thời gian canh tác có lợi cho tảo lam. Đôi khi vi tảo nở hoa trong thời gian ngắn. Vi tảo nở hoa sẽ làm giảm nồng độ oxy và sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển của tôm. Để tránh nở hoa, tảo phải được loại bỏ khỏi ao nuôi tôm.
Mục đích của nghiên cứu này là theo dõi các thông số vật lý và hóa học trong ao nuôi tôm trong suốt thời gian nuôi tôm và lập bảng thành phần của các loài vi tảo với các thông số vật lý và hóa học. Dựa trên nghiên cứu này, các loài vi tảo mục tiêu (loài có thể thích nghi nhất trong quá trình nuôi tôm, có thể sống sót trong ao tôm và cũng chứa hàm lượng lipid cao) sẽ được xác định và phân tích về các thông số hóa học và vật lý có thể được sử dụng như một hướng dẫn nuôi các loài vi tảo mục tiêu trong ao nuôi tôm ở quy mô thương mại.
2. Vật liệu và phương pháp
2.1. Vị trí nghiên cứu
Địa điểm nghiên cứu là một trang trại nuôi tôm đất tư nhân tại Kuala Jalan Bharu, Balik Pulau, Pulau Pinang, Malaysia (5° 21′ 13,8” Bắc, 100° 12′ 4,2” Tây). Trang trại bao gồm 7 ao nuôi tôm sú (Penaeus monodon) và 2 ao nuôi tôm thẻ chân trắng (Penaeus vannamei). Trong nghiên cứu này, chỉ có một ao nuôi tôm sú được sử dụng. Nguồn cung cấp nước là từ một hồ chứa bên cạnh các ao nuôi tôm và nước hồ chứa đượ lấy từ biển gần đó. Mỗi ao rộng 0,5 ha có một cửa lấy nước nối với hồ chứa và một cửa thoát nước được dẫn ra mương để thoát nước. Ao được thả 160,000 con tôm sú P. monodon [mật độ thả: >30 con tôm giống (PL)/ m2, PL 18]. Lần thay nước đầu tiên (thay nước) được thực hiện vào tuần thứ ba sau khi tôm được nuôi và trong phần còn lại của thời gian nuôi, việc thay nước được thực hiện 2 tuần/ lần. Đối với việc thay nước, 30% lượng nước ao tôm sẽ được xả vào mương và cùng một lượng nước biển từ hồ chứa sẽ được chảy vào ao qua cửa dẫn nước để thay thế lượng nước đã chảy ra ngoài. Việc nuôi tôm được thực hiện trong khoảng thời gian 15 tuần, bắt đầu từ ngày 19 tháng 2 năm 2008 đến ngày 3 tháng 6 năm 2008.
2.2. Quy trình lấy mẫu và kỹ thuật phân tích
Các thông số vật lý [nhiệt độ, pH, độ mặn, cường độ ánh sáng và oxy hòa tan (DO)] và hóa học (amoni; NH4+-N, nitrat; NO3−– N; nitrit; NO2−– N và orthophotphat; PO43--P) của nước ao được đo hàng tuần tại ba điểm/vị trí khác nhau. Tất cả các thông số vật lý được đo tại chỗ vào khoảng 10 giờ sáng trong thời gian lấy mẫu và số đọc được thực hiện ở 2 độ sâu khác nhau, 4 cm tính từ bề mặt (bề mặt) và 100 cm tính từ mặt nước (đáy). Nhiệt độ, pH và DO được xác định bằng máy đo cầm tay, YSI model 556 (YSI Incorporated, USA), cường độ ánh sáng được xác định bằng cảm biến lượng tử dưới nước (model LI-192, LI-COR Bioscience, USA) với máy đo ánh sáng ghi dữ liệu (model LI-1400, LI-COR Bioscience, USA) và độ mặn được xác định bằng cách sử dụng khúc xạ kế (model Milwaukee, AquaCave Incorporated, USA). Để xác định các chỉ tiêu hóa học, mẫu nước được lấy trên mặt và dưới đáy ao tại 3 điểm/vị trí khác nhau. Các mẫu nước sau đó được bảo quản trong chai nhựa sạch, đặt vào tủ lạnh và vận chuyển đến phòng thí nghiệm để: (a) xác định nồng độ các chất dinh dưỡng vô cơ hòa tan (nitrat, nitrit, amoni và phốt phát) – 250 ml; và (b) xác định nồng độ chlorophyll a – 500 ml. Trong phòng thí nghiệm, các mẫu nước được lọc qua bộ lọc cellulose có kích thước lỗ 0,4 μm bằng máy bơm (hệ thống chân không B-169 của BÜCHI, Thụy Sĩ) để loại bỏ các sinh vật không mong muốn hoặc các hạt lơ lửng khác. Xác định amoni được thực hiện bằng phương pháp Salicylate, nitrat bằng phương pháp khử cadmium, nitrit bằng phương pháp diazot hóa và orthophotphat bằng phương pháp axit ascorbic (Adams 1990). Thuốc thử và máy đo quang phổ Hach 2800 do Công ty Hach cung cấp (Hach Company 2002) được sử dụng để xác định. Dữ liệu lượng mưa hàng tuần cho khu vực Balik Pulau được lấy từ Cục Khí tượng, Malaysia.
Nồng độ chlorophyll a được đo theo quy trình được mô tả trong Lobban và cộng sự (1988) và Jeffrey và Humphrey (1975). Các mẫu nước để xác định chất diệp lục được lọc vào cùng ngày thu thập. Nồng độ chlorophyll a được xác định bằng phương pháp đo quang phổ tiêu chuẩn (APHA 1995), trong đó độ hấp thụ của dịch chiết được đo ở bước sóng 664 nm và 647 nm.
2.3. Lấy mẫu và phân tích vi tảo
Vi tảo được thu thập bằng lưới sinh vật phù du tiêu chuẩn có chiều dài 1 m, đường kính miệng 25 cm và kích thước mắt lưới 20 μm. Lưới sinh vật phù du được kéo theo chiều ngang và chiều dọc để lấy mẫu vi tảo. Đối với phương pháp kéo ngang, mẫu phiêu sinh vật được thu thập bằng cách hạ lưới nằm ngang xuống nước rồi kéo cho đến khi lưới giãn ra và bắt đầu kéo. Lưới được kéo chầm chậm dọc theo bờ ao vừa hất tung mặt nước ao nuôi tôm. Để kéo dọc, lưới được hạ xuống nước ở độ sâu khoảng 1 m và được giữ thẳng đứng, cách xa đáy. Lưới được kéo thẳng lên qua cột nước. Các mẫu sau đó được rửa sạch vào bình thu thập. Mỗi lần lấy mẫu được chia thành 2 thùng sạch như sau: (a) 100 ml nước chứa vi tảo để phân lập, nuôi cấy và duy trì; (b) 100 ml nước chứa vi tảo được bảo quản bằng 2 giọt dung dịch iốt Lugol 1% để phân tích tính chất và xác định vi tảo và giữ ở nhiệt độ không đổi 26°C. Các mẫu nước biển ven biển gần đó cũng được lấy và mang về phòng thí nghiệm trong một hộp nhựa sạch để xác định vi tảo. Nhận dạng vi tảo dựa trên các đặc điểm hình thái bằng cách sử dụng các khóa và hình ảnh minh họa của Frank và Terry (1987), Carmelo (1997), Dawes (1998) và Cronberg và Annadotter (2007). Thành phần vi tảo tìm thấy trong ao nuôi tôm được xác định (theo tỷ lệ phần trăm) theo phân loại của chúng.
2.4. Phân tích thống kê
Dữ liệu về các thông số vật lý và hóa học trong suốt 15 tuần của thời gian canh tác được phân tích bằng phân tích phương sai một chiều (ANOVA) của Statistix® 9 (Phần mềm phân tích, Hoa Kỳ). Khi phát hiện có sự khác biệt đáng kể, áp dụng phương pháp Tukey cho nhiều lần so sánh giữa các phương tiện để xác định sự khác biệt giữa các tham số (p <0,05).
3. Kết quả
3.1. Các yếu tố vật lí
Bảng 1 hiển thị dữ liệu lượng mưa hàng tuần cho khu vực Balik Pulau và nồng độ trung bình của DO, nhiệt độ, pH và độ mặn của ao nuôi tôm trong suốt 15 tuần của thời kỳ nuôi tôm. Hình 1 cho thấy giá trị trung bình hàng tuần của các thông số vật lý được đo trên bề mặt và dưới đáy ao nuôi tôm trong suốt 15 tuần nuôi tôm.
Hình 1. Cường độ ánh sáng trung bình hàng tuần, pH, DO, nhiệt độ và độ mặn được đo ở bề mặt và đáy ao nuôi tôm trong 15 tuần nuôi tôm. Thanh lỗi biểu thị độ lệch chuẩn
Bảng 1: Dữ liệu lượng mưa hàng tuần của vùng Balik Pulau, Pulau Pinang và nồng độ trung bình của DO, nhiệt độ, pH và độ mặn của ao nuôi tôm trong suốt 15 tuần nuôi trồng.
Kết quả nghiên cứu cho thấy cường độ sáng của nước đo được tại bề mặt và dưới đáy ao dao động trong khoảng 183,23 ± 3,98 đến 1278 ± 318,34 μmol photon/ m2/ s và 68,51 ± 12,11 đến 351,91 ± 134,22 μmol photon/ m2 [Hình 1(a)]. Trong suốt thời gian nuôi tôm, cường độ ánh sáng trên mặt nước cao hơn đáng kể (183,23 đến μmol photon/ m2/ s) so với cường độ ánh sáng ở đáy ao (68,51 đến 351,91 μmol photon/ m2/ s). Cường độ ánh sáng mặt nước dao động trong suốt thời gian nuôi. Cường độ ánh sáng cao hơn ở tuần 1 (tuần lẻ) nhưng thấp hơn ở tuần 2 (tuần chẵn). Xu hướng cường độ ánh sáng xen kẽ này được nhìn thấy cho đến tuần thứ 7 nhưng không thấy xu hướng như vậy trong những tuần tiếp theo [Hình 1(a)].
Nhiệt độ nước ở bề mặt dao động trong khoảng 29,56 ± 0,05°C đến 31,59 ± 0,08°C và 29,53 ± 0,02°C đến 31,56 ± 0,01°C ở đáy ao [Hình 1(b)]. Nhiệt độ bề mặt và đáy ao chênh lệch không có ý nghĩa thống kê (p <0,05).
DO dao động từ 4,56 ± 0,29 đến 8,21 ± 0,71 mg/l và 4,43 ± 0,07 đến 9,30 ± 0,31 mg/l lần lượt ở bề mặt và đáy ao [Hình (1c)]. Nồng độ DO trong nước không khác biệt đáng kể (p <0,05) giữa bề mặt và đáy ao ngoại trừ một vài tuần ở giai đoạn cuối của quá trình nuôi tôm (tuần 8 đến 15). Trong những tuần đó, nồng độ DO ở bề mặt cao hơn ở đáy ao (p > 0,05).
Độ pH của nước trong ao dao động trong khoảng 7,65 ± 0,01 đến 8,5 ± 0,00 và 7,46 ± 0,02 đến 8,51 ± 0,08 lần lượt ở bề mặt và đáy ao [Hình 1(d)]. Từ tuần thứ 7 đến tuần thứ 15, pH biến động rõ rệt giữa nước đáy và nước mặt. Giá trị pH thấp hơn được phát hiện ở đáy ao từ tuần thứ 7 đến tuần thứ 15, với độ pH thấp nhất được phát hiện vào tuần thứ 8.
Độ mặn của nước dao động từ 20 ± 0,0‰ đến 30 ± 0,0‰ trong các giai đoạn canh tác [Hình 1(e)]. Độ mặn 30‰ được duy trì trong thời gian đầu nuôi từ đầu (tuần 0) đến tuần thứ 5, nhưng bắt đầu giảm xuống 25‰ từ tuần thứ 6 đến tuần thứ 8 và tiếp tục giảm xuống 20‰ trong tuần thứ 9 cho đến cuối vụ nuôi.
3.2. Thông số hóa học
Hình 2 cho thấy nồng độ amoni, nitrat, nitrit và orthophotphat trung bình hàng tuần trong suốt 15 tuần nuôi tôm.
Hình 2. Nồng độ trung bình hàng tuần của các chất dinh dưỡng vô cơ hòa tan trong ao tôm trong 15 tuần nuôi trồng. Thanh lỗi đại diện cho độ lệch chuẩn.
Trong thời gian nuôi, nồng độ amoni trung bình dao động từ 0,017 đến 0,38 mg/l [Hình 2 (a)]. Nồng độ amoni nhìn chung không dao động nhiều từ tuần 1 đến tuần 9. Tuy nhiên, nồng độ amoni tăng mạnh được quan sát thấy vào tuần 10, sau đó là sự suy giảm trong các tuần tiếp theo (tuần 11–15). Nồng độ nitrit và nitrat trung bình nằm trong khoảng từ 0,01 ± 0,004 đến 0,98 ± 0,01 mg/l và 0,024 ± 0,01 đến 2,12 ± 0,035 mg/l [Hình 2(b) và 2(c)]. Nồng độ nitrat và nitrit cao nhất (lần lượt là 0,98 mg/l và 2,12 mg/l) được ghi nhận vào tuần thứ 10, sau đó giảm đột ngột trong các tuần tiếp theo. Nhìn chung, nồng độ nitrit và nitrat dưới 0,2 mg/l từ giai đoạn đầu nuôi cho đến tuần thứ 8 trước khi nồng độ này tăng lên sau tuần thứ 8 cho đến tuần thứ 10. Nồng độ nitrit và nitrat sau đó giảm từ tuần 10 đến tuần 13 và nồng độ nitrit và nitrat đã giảm trở lại tăng nhẹ ở tuần 14 và 15.
Trong thời gian nghiên cứu, nồng độ trung bình của phốt pho phản ứng hòa tan hoặc o-photphat nằm trong khoảng từ 0,16±0,06 đến 1,93±0,064 mg/l [Hình 2(d)]. Trong giai đoạn đầu của quá trình nuôi tôm (tuần 1 đến tuần 5), nồng độ o -phosphate cao hơn so với giai đoạn sau. Nồng độ photphat cao nhất là 1,93 mg/l vào tuần thứ 4 và thấp nhất vào tuần thứ 14. Nồng độ o -photphat dao động hai tuần một lần bắt đầu từ tuần thứ 7 cho đến khi kết thúc giai đoạn canh tác.
Nồng độ Chlorophyll a trong nghiên cứu này nằm trong khoảng từ 5,03 ± 2,17 đến 32,61 ± 0,35 μg/l (Hình 3). Nồng độ chlorophyll a cao nhất là vào đầu giai đoạn nuôi tôm nhưng nồng độ giảm xuống giá trị thấp nhất vào tuần thứ 4. Nồng độ chlorophyll a sau đó tăng nhẹ từ tuần 5 đến tuần 7 và giảm trở lại từ tuần 8 đến tuần 10. Tuy nhiên, nồng độ chlorophyll a tiếp tục tăng từ tuần 11 đến các tuần tiếp theo cho đến khi kết thúc giai đoạn nuôi cấy.
Hình 3. Nồng độ chlorophyll a trung bình hàng tuần trong ao nuôi tôm trong suốt 15 tuần nuôi tôm.
Theo Asma Liyana Shaari, Misni Surif, Faazaz Abd. Latiff, Wan Maznah Wan Omar, và Mohd Noor Ahmad
Nguồn: https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC3819091/
Biên dịch: Nguyễn Thị Quyên – Tôm Giống Gia Hóa Bình Minh
TÔM GIỐNG GIA HÓA – CHÌA KHÓA THÀNH CÔNG
Xem thêm:
- Phụ Gia Thức Ăn Chức Năng Làm Giảm Lượng Khí Thải Carbon Trong Sản Xuất Tôm
- Liệu EHP Có Phải Là Nỗi Lo Chính Liên Quan Đến Sức Khỏe Tôm Đối Với Các Nhà Sản Xuất Ở Châu Á?
- An Toàn Sinh Học Và Vai Trò Của Nó Trong Việc Giảm Thiểu Tác Động Của Dịch Bệnh Tại Các Cơ Sở Sản Xuất Tôm Giống