Đây là thông tin hiển thị trên website, KHÔNG dùng để quét mã QR. Vui lòng liên hệ 1900 86 68 69 nếu link QR dẫn đến trang web này.
Đây là thông tin hiển thị trên website, KHÔNG dùng để quét mã QR. Vui lòng liên hệ 1900 86 68 69 nếu link QR dẫn đến trang web này.

Người nuôi tôm ở Đông Nam Á và Ấn Độ cho biết chi phí ngày càng tăng, bắt đầu từ 15%, chủ yếu do giá thức ăn, chi phí năng lượng và lao động

Do hậu quả của đại dịch và cuộc xâm lược Ukraine, người nuôi tôm ở châu Á cho biết rằng không có cách nào thoát khỏi việc chi phí sản xuất (COP) tăng cao. Đây là thách thức hàng đầu khi dịch bệnh bùng phát thường xuyên làm giảm tỷ lệ sống, tăng chi phí sản xuất và giảm tỷ suất lợi nhuận. Một số nông dân nuôi tôm và các bên liên quan ở Đông Nam Á và Ấn Độ cho biết chi phí sản xuất tăng trung bình từ mức thấp là 15% lên cao nhất là 25% tùy thuộc vào kích cỡ tôm thu hoạch. Trong quý I năm 2023, giá tôm trên thị trường quốc tế giảm khiến tình hình nuôi tại nhiều quốc gia trở nên tồi tệ hơn.

Nhìn chung, những nguyên nhân chính làm tăng chi phí sản xuất bao gồm việc tăng giá thức ăn chăn nuôi, cũng như chi phí năng lượng và lao động. Giá nguyên liệu thức ăn và chi phí chế biến thức ăn gia tăng kể từ tháng 9 năm 2021. Như một biện pháp hỗ trợ người nuôi tôm, cá, hầu hết các nhà máy thức ăn chăn nuôi chỉ bắt đầu tăng giá thức ăn vào đầu năm 2022. Bảng 1 cho thấy một số chi phí sản xuất trực tiếp được cung cấp bởi một số nông dân trong khu vực.

Các yếu tố ảnh hưởng

Theo B. Ravikumar tại Growel Feeds Pte Ltd, năm 2019, chi phí sản xuất tôm thẻ chân trắng ở Andhra Pradesh, Ấn Độ thấp hơn rất nhiều. Ông ước tính mức tăng tổng thể là từ 15-20% lên khoảng 265 INR/kg (2,54 USD/kg) đối với tôm cỡ 60 con/kg, và đối với tôm cỡ 50 con/kg là 278 INR/kg (3,28 USD/kg). Mặc dù chi phí thức ăn cao hơn ở mức 15-20% là một yếu tố làm tăng chi phí sản xuất, nhưng yếu tố chính là chi phí điện, ở Andhra Pradesh tăng gấp ba lần và lương của công nhân tăng 30-40% (Hình 1).

Hình 1. Cơ cấu chi phí trực tiếp cho sản xuất tôm thẻ chân trắng cỡ 50 con/kg ở Ấn Độ. Vì 80-90% số ao được khảo sát đã bùng phát dịch bệnh Enterocytozoon hepatopenaei (EHP), hội chứng phân trắng, biểu đồ này cân đối chi phí sản xuất của ao bình thường và ao có dịch bệnh. Nếu chỉ tính riêng ao nuôi bình thường, thức ăn sẽ chiếm 45-49% chi phí sản xuất. Nguồn: Ravikumar, Growel Pte Ltd

“Trong ngành, chúng tôi cũng đã nghe về sự tăng chi phí của các bộ phận và thiết bị, dẫn đến chi phí bảo trì tăng 40-50%. Ở Andhra Pradesh, chúng tôi may mắn vì chi phí điện vẫn còn thấp, trong khi ở Gujarat và Tamil Nadu, chi phí điện gần gấp đôi số tiền mà các trang trại phải trả ở Andhra Pradesh. Tuy nhiên, chi phí đất đai ở các bang này thấp hơn nhiều so với Andhra Pradesh.” Trong một bài báo liên quan trong số tháng 3/ tháng 4 năm 2023, Ravikumar và các đồng nghiệp đã so sánh tỷ lệ sống, tỷ lệ chuyển đổi thức ăn (FCR) và chi phí sản xuất (COP) trong ao có độ mặn thấp (5-12ppt).

Bảng 1. Chi phí sản xuất tôm thẻ chân trắng ở Đông Nam Á và Ấn Độ.

Tại Indonesia, Haris Muhtadi, Shrimp Club Indonesia đã đưa ra COP cho tôm cỡ 60 con/kg vào năm 2022 là 42.500 IDR/kg (2,86 USD/kg). Con số này cao hơn 6,9% so với năm 2021. Rizky Darmawan, PT Delta Marine Indonesia đã đưa ra COP cao hơn ở mức 44.000 IDR/kg (2,96 USD/kg). Một nông dân giấu tên ở Tây Java đã cho biết giá chi phí sản xuất cho cỡ 30 con/kg là khoảng 50.000-60.000 IDR/kg (3,36-4,04 USD/kg), cao hơn 20-25% so với năm 2021.

Các thành phần chi phí chính là: 8% cho tôm post, 43% cho thức ăn và 16% cho năng lượng (Hình 2). Trong suốt năm 2022, tổng mức tăng của giá thức ăn chăn nuôi là 1.200-1.300 IDR/kg (khoảng 0,08 USD/kg), tương đương 6-7%. Các mức tăng được thực hiện theo cách so le và vào tháng 3 năm 2023, một mức tăng khác 500 IDR/kg đã được đưa ra. Các mức tăng khác bao gồm việc tăng 5% cho tôm post (2 IDR/kg) và tăng từ 15-20% cho năng lượng. Chi phí năng lượng (dầu diesel và điện) đã tăng lên kể từ năm 2019 ở mức 11% và 12% vào năm 2021.

Hình 2. Cơ cấu chi phí sản xuất trực tiếp đối với tôm thẻ chân trắng cỡ 60 con/kg tại PT Delta Marine Indonesia.

Wan Nadhri Wan Fauzi, Giám đốc điều hành tại Blue Archipelago Bhd, Malaysia, một nhà tích hợp tôm hàng đầu ước tính rằng vào năm 2022, chi phí sản xuất tăng khoảng 1-1.3 MYR/kg và phần lớn là do giá thức ăn và chi phí lao động tăng cao. Chi phí năng lượng vẫn ổn định. Chi phí cho tôm post sạch mầm bệnh cụ thể (SPF) đã tăng gần 15% trong quý đầu tiên của năm 2023. Mức tăng cao hơn với tôm post kháng mầm bệnh cụ thể (SPR) là 22%. Khi có dịch bệnh, chi phí hóa chất và probiotics tăng 5%. “Việc phong tỏa do Covid-19 và chiến tranh ở Ukraine thực sự ảnh hưởng lớn trong việc tăng giá này. Chính phủ Malaysia đưa ra mức lương tối thiểu cao hơn và điều này làm tăng chi phí lao động của chúng tôi lên 28%”, Wan Nadhri cho biết.

Đối với chi phí nuôi tôm sú, giá tôm post cũng tăng 8%. Chi phí thức ăn chăn nuôi cũng tăng. Mật độ thả là 35-45 PL/m² và giá bán là 33-34 MYR/kg (7,17 USD/kg) đối với cỡ 30 con/kg.

Hình 3. Thành phần chi phí sản xuất gián tiếp đối với tôm thẻ chân trắng cỡ 60 con/kg tại Malaysia.

Tại Philippines, COP được đưa ra là 224 PHP/kg (4 USD/kg) cho cỡ 40 con/kg. Các thành viên trong ngành cho biết sự gia tăng này là do giá thức ăn chăn nuôi, năng lượng (điện) tăng 20% và giá tôm post hiện tại là 35 centavos/con. Theo CP Philippines, phân tích COP bao gồm 47% cho thức ăn, 15% cho năng lượng, 8% cho tôm post và 7% cho lao động. Năm 2023, giá tôm tương đối cao đã giúp ích cho ngành. Giá cơ bản là 240-280 PHP/kg (4,29-5,00 USD/kg) tại Visayas và Mindanao. Điều này có nghĩa là giá 290 PHP/kg (5,18 USD/kg) đối với tôm cỡ 50 con/kg ở Visayas.

Hình 4. Cơ cấu chi phí sản xuất gián tiếp đối với tôm thẻ chân trắng cỡ 60 con/kg tại một trang trại ở Philippines.

Tại Thái Lan, chi phí sản xuất tăng 15-18% so với năm 2021, theo Vinij Tansakul, Chuyên gia tư vấn nuôi trồng thủy sản tôm. Những thách thức với COP năm 2022 là: tăng giá thức ăn và tăng giá nguyên vật liệu và năng lượng (điện và xăng) so với năm 2021. Một nguồn tin khác trong ngành ghi nhận giá tôm post tăng mặc dù chất lượng tôm post đã giảm.

Tiến sĩ Trần Hữu Lộc, Phòng thí nghiệm ShrimpVet, cho biết COP chung ở Việt Nam đối với tôm cỡ 50 con/kg là 4,0 USD/kg nuôi trong ao lót bạt. Một nguồn khác trong ngành đã trích dẫn COP là 4,26 USD/kg cho cỡ 35 con/kg. So với năm 2021, mức tăng là 15%, chủ yếu là do chi phí thức ăn, chi phí xử lý nguồn nước đầu vào và tỷ lệ sống thấp. Tuy nhiên, theo ghi nhận, nếu nông dân ngừng nuôi tôm, thì điều đó có thể là do chi phí bằng hoặc thấp hơn giá bán tôm. Giá tôm post đã tăng lên 125 đồng/PL. Các nhà lãnh đạo của Việt Nam trong ngành nuôi tôm thường thảo luận về việc COP cho tôm thẻ chân trắng vượt xa so với Ấn Độ và Ecuador.

Trong VietShrimp 2023, tiến sĩ Lộc đã so sánh chi phí sản xuất gián tiếp đối với tôm cỡ 50 con/kg là 2,4 USD/kg ở Ecuador; 2,9 USD/kg ở Ấn Độ và 4,25 USD/kg ở Việt Nam. Yếu tố đóng góp lớn nhất vào việc tăng chi phí là thức ăn chăn nuôi ở mức 64% do ưu tiên thức ăn chất lượng cao và hàm lượng protein thô cao (hơn 40%). Các yếu tố khác phần lớn là cho việc xử lý nước, lót bạt và lao động. Cũng tại sự kiện này, các nhà lãnh đạo ngành và nhà máy thức ăn chăn nuôi đã đề xuất các mô hình và cách thức giảm chi phí sản xuất ít nhất xuống còn 3,5 USD/kg.

Theo Aqua Culture Asia Pacific

Nguồn: https://aquaasiapac.com/issue/may-june-2023/

Biên dịch: Huyền Thoại – Tôm Giống Gia Hóa Bình Minh

TÔM GIỐNG GIA HÓA- CHÌA KHÓA THÀNH CÔNG

Xem thêm:

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

You cannot copy content of this page