Kế hoạch dự phòng

Việc quan sát các dấu hiệu lâm sàng của bệnh đòi hỏi phải nhanh chóng cách ly các cá thể bị ảnh hưởng, theo dõi PCR và mô học liên tục.

Khi các trường hợp khẩn cấp về vệ sinh xảy ra tại các cơ sở nuôi trồng thủy sản, nhân viên phải sẵn sàng ứng phó một cách hiệu quả. Do đó, kế hoạch dự phòng mô tả các bước và thời gian mà nhân viên cần tuân theo phải được đưa vào chiến lược an toàn sinh học của mỗi cơ sở. Mục tiêu của kế hoạch này là phục hồi sản lượng trong thời gian ngắn nhất, với chi phí và rủi ro tối thiểu nhất có thể. Hiệu quả của kế hoạch dự phòng này gắn liền với việc phản ứng nhanh chóng và thực hiện hiệu quả các biện pháp an toàn sinh học.

Kế hoạch dự phòng sẽ phụ thuộc vào việc tác nhân gây bệnh hoặc bệnh được phát hiện là ngoại lai hay đặc hữu đối với cơ sở, tác động kinh tế tiềm tàng của nó và liệu có ý định loại bỏ nó ra khỏi cơ sở hay không.

Ba lựa chọn có sẵn để ứng phó với trường hợp khẩn cấp về vệ sinh là điều trị, chỉ áp dụng trong các trường hợp nhiễm trùng do vi khuẩn hoặc nấm; tiêu diệt quần thể trong trường hợp có mầm bệnh ngoại lai nghiêm trọng; hoặc tiếp tục nuôi dưới sự kiểm soát an toàn sinh học bên trong nghiêm ngặt, như trong trường hợp dịch bệnh lưu hành.

Hệ thống cờ

Một trong những giai đoạn đầu tiên đối với những trường hợp khẩn cấp về vệ sinh là tạo ra nhận thức. Nhân viên cần được thông báo về tình hình và hành động theo kế hoạch dự phòng. Để nâng cao nhận thức, một hệ thống cờ có thể được thiết lập tại địa điểm bị ảnh hưởng.

Ví dụ, hệ thống cờ này có thể sử dụng ba màu khác nhau: màu xanh lá cây để báo cáo các hoạt động bình thường, màu vàng để biểu thị việc phát hiện mầm bệnh và màu đỏ để biểu thị sự hiện diện của các dấu hiệu lâm sàng hoặc tỷ lệ chết. Màu cờ và các hành động đề xuất được tóm tắt trong Bảng 1. Mỗi thành viên trong cơ sở cần nhận thức rõ về các hành động thích hợp khi xác định được vấn đề. Tất nhiên, việc đào tạo này phải được thực hiện trước khi trường hợp khẩn cấp xảy ra.

Bảng 1. Đánh dấu màu cờ trong kế hoạch an toàn sinh học.

Quyết định

Trước khi quyết định nên điều trị, tiêu diệt hay tiếp tục nuôi, cần phải đánh giá một số yếu tố, bao gồm hồ sơ về tình hình vệ sinh trước đó và hiện tại, liệu tình trạng khẩn cấp có phải là do phát hiện mầm bệnh không hay là do biểu hiện của mầm bệnh đó, mức độ nghiêm trọng tiềm ẩn của bệnh, kích cỡ tôm và tình trạng tôm chết. Tình hình kinh tế của công ty và giá trị thị trường tôm hiện tại là những yếu tố bổ sung.

Mầm bệnh ngoại lai

Bảng 2 trình bày các quyết định được khuyến nghị trong trường hợp phát hiện bệnh hoặc quan sát thấy biểu hiện của bệnh do mầm bệnh ngoại lai hoặc mầm bệnh ảnh hưởng đến tôm bố mẹ. Sự hiện diện của hầu hết các mầm bệnh ảnh hưởng đến toàn hệ thống nuôi hoặc tỷ lệ gây chết cao đòi hỏi phải loại bỏ quần thể. Việc phát hiện virus gây hoại tử cơ quan tạo máu và cơ quan lập biểu mô (IHHNV) trong tôm bố mẹ sẽ yêu cầu sàng lọc cá thể bị nhiễm bệnh ra khỏi hệ thống, tuy nhiên, nếu virus được phát hiện trong ao nuôi, thì việc chờ đợi để đánh giá hiệu suất tôm sẽ là lựa chọn được khuyến nghị. Mặc dù vậy, nhưng việc nuôi tôm bị nhiễm bệnh có thể khiến tình trạng nhiễm trùng kéo dài trong cơ sở.

Bảng 2. Những quyết định khi phát hiện mầm bệnh ngoại lai hoặc mầm bệnh ảnh hưởng đến tôm bố mẹ.

Các loại virus đường ruột như virus HPV, virus MBV trên tôm sú, baculovirus trên tôm he (B.P.) và hoại tử tuyến ruột giữa do baculovirus (BMNV) có thể được sàng lọc bằng cách làm sạch và khử trùng trứng và nauplii. Những mầm bệnh này có khả năng ảnh hưởng đến sự tăng trưởng nhưng không có khả năng gây bùng phát dịch bệnh.

Mầm bệnh đặc hữu

Tiêu chí để quyết định thu hoạch hoặc tiêu diệt trong trường hợp tôm nhiễm bệnh đặc hữu (không phải mầm bệnh ngoại lai) phụ thuộc vào kích cỡ tôm và tình trạng tôm chết. Những điều này có thể được phân tích bằng cách sử dụng phương pháp được nêu trong Bảng 3. Có thể sẽ phát sinh sự nghi ngờ về tình trạng bệnh hoặc mức độ nghiêm trọng của nó nếu tỷ lệ chết của những con tôm nhỏ ở mức thấp và tỷ lệ chết diễn ra chậm ở những con tôm lớn.

Bảng 3. Tiêu chí để quyết định nên thu hoạch khẩn cấp hay tiêu diệt quần thể tôm sau khi có tôm chết.

Thu hoạch là một hoạt động có rủi ro cao bất kể tình trạng sức khỏe của tôm, thậm chí còn rủi ro hơn trong trường hợp thu hoạch khẩn cấp. Cần có sự giám sát chặt chẽ của nhân viên về an toàn sinh học và đặc biệt chú trọng đến việc thu thập sinh vật bằng túi lưới tại các điểm xả ao, khử trùng kỹ địa điểm thu hoạch và thiết bị cũng như vận chuyển sản phẩm đến nhà máy chế biến một cách an toàn.

Chuỗi báo cáo

Báo cáo về tỷ lệ chết, dấu hiệu lâm sàng, hành vi bất thường hoặc kết quả xét nghiệm dương tính cần phải hiệu quả nhất có thể. Điều này đòi hỏi một chuỗi báo cáo càng ngắn càng tốt với việc truyền thông ngay lập tức.

Bài tập mô phỏng

Nên tổ chức một cuộc diễn tập mô phỏng áp dụng kế hoạch dự phòng nếu chưa có bất kỳ đợt thử nghiệm thực tế nào. Các hoạt động kiểm tra định kỳ về đợt bùng phát dịch bệnh nên được thực hiện để kiểm tra tính hiệu quả của các biện pháp ứng phó. Kế hoạch dự phòng cũng cần nêu rõ:

  • Các quy trình chẩn đoán, và xác nhận chẩn đoán đối với trường hợp bệnh ngoại lai
  • Quy trình báo cáo
  • Hướng dẫn tiêu diệt hợp vệ sinh
  • Hướng dẫn xử lý, tiêu hủy tôm trong trường hợp tôm chết
  • Hướng dẫn cho việc di chuyển của nhân viên, phương tiện và động vật
  • Hướng dẫn thiết lập ngăn cách khu vực dương tính và khu vực phòng vệ để theo dõi và kiểm soát sự lây lan tiềm ẩn của bệnh
  • Quy trình khử trùng
  • Quy trình bỏ hoang.

Theo Tiến sĩ Victoria Alday-Sanz

Nguồn: https://www.globalseafood.org/advocate/designing-biosecurity-plan-shrimp-aquaculture-part-2/

Biên dịch: Huyền Thoại – Tôm Giống Gia Hóa Bình Minh

TÔM GIỐNG GIA HÓA – CHÌA KHÓA THÀNH CÔNG

Xem thêm:

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *