Tóm tắt

Ngành nuôi tôm ở Iran đang gặp phải vấn đề dịch bệnh do các tác nhân gây bệnh xâm nhập từ bên ngoài. Một trong những giải pháp để ngăn chặn vấn đề này là sử dụng hệ thống lọc nước. Nghiên cứu này đã so sánh hiệu quả của hệ thống lọc nước ba hàng và một hàng tại các trang trại nuôi tôm ở tỉnh Bushehr. Kết quả nghiên cứu cho thấy hệ thống lọc nước ba hàng hiệu quả hơn hệ thống lọc nước một hàng trong việc ngăn chặn các hạt xâm nhập (sống và không sống), sinh vật không mong muốn, trứng và ấu trùng của các loài thủy sản. Hệ thống lọc nước một hàng kém hiệu quả hơn, dẫn đến việc tăng số lượng sinh vật không mong muốn trong ao nuôi tôm. Điều này làm giảm năng suất, lợi nhuận và tăng chi phí sản xuất. Kết quả nghiên cứu cho thấy nông dân nên sử dụng hệ thống lọc nước ba hàng với lưới có kích thước lần lượt là 1000, 500 và 250 micron để cải thiện năng suất, ngăn chặn tác nhân gây bệnh xâm nhập và giảm nguy cơ dịch bệnh.

Giới thiệu

Ngành nuôi trồng thủy sản ở Iran đang phát triển mạnh mẽ, nhưng dịch bệnh là một trong những thách thức lớn nhất đối với ngành này. Một trong những nguyên nhân chính gây ra dịch bệnh là sự xâm nhập của các tác nhân gây bệnh từ bên ngoài vào ao nuôi tôm. Nghiên cứu này đã so sánh hiệu quả của hệ thống lọc nước cũ và hệ thống lọc nước mới trong việc ngăn chặn sự xâm nhập của các tác nhân gây bệnh và sinh vật không mong muốn vào ao nuôi ở tỉnh Bushehr. Kết quả nghiên cứu cho thấy hệ thống lọc nước mới có hiệu quả hơn hệ thống lọc nước cũ trong việc ngăn chặn sự xâm nhập của các tác nhân gây bệnh và sinh vật không mong muốn. Hệ thống lọc nước mới có cấu trúc gồm ba hàng lưới với kích thước lần lượt là 1000, 500 và 250 micron. Kích thước lưới càng nhỏ thì khả năng ngăn chặn sự xâm nhập của các tác nhân gây bệnh và sinh vật không mong muốn càng cao. Kết quả nghiên cứu này cho thấy việc sử dụng hệ thống lọc nước mới có thể giúp giảm nguy cơ dịch bệnh bùng phát ở các trang trại nuôi tôm ở Iran.

Chuẩn bị nghiên cứu

Để nâng cao hiệu quả của hệ thống lọc nước ở các trang trại nuôi tôm ở tỉnh Bushehr, một số cải cách cơ cấu đã được thực hiện ở các bộ phận khác nhau của hệ thống lọc. Các cải cách bao gồm việc tăng kích thước bể hút nước, sử dụng lưới lọc có kích thước nhỏ hơn ở ống hút nước và máy bơm, tăng kích thước bể thư giãn nước và sử dụng nhiều lớp lưới lọc có kích thước khác nhau ở bể lọc. Mỗi bộ phận này phải có đặc điểm cấu trúc riêng để nâng cao hiệu quả của hệ thống khử nước trong trang trại nuôi tôm (Hình 1) Các cải cách này đã giúp giảm thiểu sự xâm nhập của các sinh vật không mong muốn, từ đó góp phần giảm nguy cơ dịch bệnh bùng phát.

Hình 1: Bể hút và bộ lọc, nhằm mục đích ngăn chặn sự xâm nhập không mong muốn.

Hệ thống chuẩn bị nước bao gồm: * Bao quanh bởi lưới nhựa có lỗ 20 mm tính đến đáy kênh tưới. * Có lưới bông che phần trên của ao (5-10 mm) để ngăn cua và các loài thủy sản khác vào ao. * Ống hút nước (van) nằm ở phần sâu nhất của bể hút nước. * Có lưới kim loại có lỗ 10-20 mm xung quanh van bơm để ngăn chặn các sinh vật không mong muốn xâm nhập vào bể. Máy bơm có công suất 37 đến 75kWh với tốc độ 3000 vòng /phút và bơm nước tư kênh tưới vào ao hút. Thông thường, ao thư giãn nước trang trại có kích thước 3 x 6 mét với độ sâu 5 mét, được xây dựng để giảm áp lực nước bơm. Dưới đáy ao có đá thô (20-30 cm) và đá vụn nhỏ (hơn 2-3 cm) và giữa chúng đặt một lưới kim loại có lỗ 1 cm. Ngoài ra, còn có cửa xả nước ngược trung tâm (Hình 2).

Hình 2: Đá vụn được đặt trên lưới kim loại và nhựa của ao thư giãn nước.

Bằng cách sửa đổi hệ thống tưới tiêu của trang trại và xây dựng ao lọc ba hàng, nghiên cứu này cố gắng so sánh hiệu quả của hệ thống này với hệ thống cũ trên đồng ruộng (sử dụng lưới 1000 micron). Ao này được làm bằng kết cấu bê tông có kích thước 25 x 5 mét. Lưới micron được lắp thành ba hàng với khoảng cách từ 6 đến 5 mét, với bốn đến năm cửa ra trên mỗi hàng. Đối với hệ thống một hàng, chỉ sử dụng một lưới 1000 micron với chiều dài 4-5 mét ngay sau ao thư giãn. Mỗi hệ thống này bao gồm ba lần lặp lại và việc sử dụng chúng kéo dài từ đầu đến cuối giai đoạn nuôi (Hình 3).

Hình 3: Hệ thống lọc 3 hàng 1000, 500 và 250 micron

Chúng tôi đã thu thập số lượng sinh vật không mong muốn bị mắc kẹt trong cả hai lưới hàng ngày để đánh giá hiệu suất của chúng. Cuối cùng, thông tin được thu thập và ghi nhận từ các trung tâm chế biến tôm vào cuối thời kỳ nuôi. Tầm quan trọng của sự khác biệt được đo lường bằng phần mềm thống kê SPSS 24, phân tích phương sai một chiều (ANOVA) và thử nghiệm Tukey với độ tin cậy 95% khi kết thúc nghiên cứu. Sơ đồ được tạo bằng EXCEL 2013.

Kết quả

Quần thể các loài không mong muốn tại khu vực nghiên cứu cũng khác nhau tùy theo mùa và thời gian sinh sản. Tuy nhiên, kết quả cho thấy hầu hết các loài không mong muốn sinh sản trong khoảng thời gian từ tháng 5 đến tháng 6 và đôi khi cho đến cuối tháng 8 ở vùng Delvar. Trong nghiên cứu này, một số loài cá, động vật giáp xác và sứa đã được tìm thấy, bao gồm cá măng biển (Chanos chanos), Liza klunzingeri, Anodontostoma chacunda, Terapon puta, Sillago japonica, cá chép răng Ả Rập (Aphanius sp.), cua xanh (Callinectes sp.), cua bùn hoặc cua rừng ngập mặn hoặc cua biển (Scylla sp.), Cua ẩn sĩ, sứa, Meteorappleaeus affinis, Penaeus semisulcatus (tôm sú xanh) (Bảng 1) (Hình 4).

Bảng 1: Các loài thủy sản khác nhau trong kênh nước tưới của các tổ hợp nuôi tôm và mùa sinh sản của chúng.

Hình 4: Thủy sản trong kênh thủy lợi của các tổ hợp nuôi tôm. A: Cua xanh. B: Metapenaeus affinis.

Ngoài ra, ở mỗi hệ thống lọc, không có sự khác biệt đáng kể về số lượng vật thể và sinh vật không mong muốn bị mắc kẹt trước các bộ lọc micron (hệ thống lọc) (Bảng 2) (p>0,05).

Bảng 2: Các vật thể và sinh vật không mong muốn bị mắc kẹt trong các phần khác nhau của hệ thống lấy nước của trang trại

Hệ thống lọc ba hàng có hiệu quả trong việc ngăn chặn sự xâm nhập của các sinh vật không mong muốn, bao gồm nghêu, tảo nổi, trứng và ấu trùng cá, tôm hoang dã và các loài thủy sản khác nhau. Số lượng và chủng loại của các sinh vật này khác nhau tùy thuộc vào lỗ rỗng của lưới ở các hàng khác nhau.

Lưới 250 micron ở hàng thứ ba có hiệu quả nhất trong việc ngăn chặn sự xâm nhập của trứng và ấu trùng thủy sản, đặc biệt là vào tháng 5 và tháng 6. Số lượng sinh vật không mong muốn bị mắc kẹt trong các lưới này đã giảm đáng kể trong khoảng thời gian từ tháng 7 đến tháng 9.

Hình 5: Thu trứng thủy sản vào lưới 250 micron ở hàng thứ ba của hệ thống lọc ba hàng.

Ngoài ra, ấu trùng cá, tôm, cua hầu hết bị mắc vào lưới hàng thứ hai có lỗ 500 micron. Tuy nhiên, một số lượng lớn sinh vật không mong muốn bị mắc kẹt chủ yếu trong khoảng thời gian từ tháng 5 đến tháng 6. Tuy nhiên, những giá trị này giảm dần cho đến tháng 9. Hiệu suất hàng ngày của lưới 1000 micron ở hàng đầu tiên cho thấy số lượng sinh vật không mong muốn bị bắt ở hàng này không khác biệt đáng kể trong các tháng khác (Bảng 3).

Bảng 3: Các sinh vật không mong muốn bị mắc kẹt trong các phần và tháng khác nhau của hệ thống lọc ba hàng.

Trong các trang trại có hệ thống lọc một hàng, chỉ có cá lớn, các loài tôm non khác, cua lớn và nhỏ, hàu, sứa, sợi tảo và các vật thể trôi nổi trong nước bị mắc kẹt trong các tháng khác nhau. Những hệ thống này không bẫy trứng hoặc ấu trùng thủy sản (Bảng 4).

Bảng 4: Các sinh vật không mong muốn bị mắc kẹt trong các tháng khác nhau của hệ thống lọc một hàng.

Tuy nhiên, có sự khác biệt đáng kể về số lượng vật thể bị mắc kẹt trong hệ thống lọc ba hàng so với hệ thống một hàng trong quá trình canh tác. Nguyên nhân của sự khác biệt này là do lượng chất bị mắc kẹt trong hệ thống lọc ba hàng cao hơn (Bảng 5).

Bảng 5: So sánh giá trị trung bình ± độ lệch chuẩn của tổng số sinh vật không mong muốn bị mắc kẹt hàng ngày trong mỗi hệ thống lọc khác nhau trong các tháng khác nhau (các chữ cái khác nhau trong mỗi hàng biểu thị mức quan trọng và các chữ cái tương tự biểu thị mức độ không đáng kể).

Trong các ao nuôi tôm sử dụng hệ thống lọc một hàng với lưới 1000 micron trong thời gian nghiên cứu, việc điều tra các sinh vật không mong muốn cho thấy do không có vật cản cho ấu trùng và trứng thủy sinh xâm nhập và hoặc lưới bị rách, đặc biệt là trong những tháng đầu tiên, nhiều loài thủy sinh có thể vào ao nuôi tôm, bao gồm cá tự nhiên, tôm hoang dã con, cua xanh và sứa (Hình 6).

Hình 6: Sinh vật không mong muốn trong ao nuôi tôm. A: Aphanius sp. B: sứa.

Cuộc khảo sát được thực hiện tại các trung tâm chế biến tôm cho thấy lượng sinh vật không mong muốn được thu thập từ các trang trại sử dụng hệ thống ba hàng thấp hơn đáng kể so với hệ thống một hàng (p<0,05). Ngoài ra, nếu các trang trại bảo quản tôm post từ tháng 5 đến tháng 6, lượng tôm không mong muốn sẽ cao hơn đáng kể so với tháng 7 (p< 0,05) (Hình 7).

Bảng 6: Số lượng sinh vật không mong muốn được thu thập từ các nghiệm thức khác nhau tại các trung tâm chế biến.

Dựa trên kết quả nghiên cứu, các chỉ số sản xuất về trọng tải sản xuất, tỷ lệ chuyển đổi thức ăn (FCR) và tỷ lệ sống của trang trại có hệ thống lọc nước một hàng (1000 micron) thấp hơn đáng kể so với trang trại có hệ thống ba hàng (p < 0,05) (Bảng 7).

Hình 7: Thu thập các loài cá tự nhiên khác nhau tại các cơ sở chế biến tôm.

Bảng 7: So sánh giá trị trung bình ± độ lệch chuẩn trung bình của các chỉ số sản xuất của các hệ thống lọc khác nhau (các chữ cái khác nhau trong mỗi cột biểu thị mức ý nghĩa và các chữ cái tương tự biểu thị mức không đáng kể).

Hơn nữa, hệ thống lọc một hàng có tỷ lệ sinh vật không mong muốn cao nhất, trong khi hệ thống lọc ba hàng có tỷ lệ thấp nhất (Bảng 8).

Bảng 8: So sánh tỷ lệ phần trăm các mục không mong muốn trong mỗi hệ thống lọc khác nhau (các chữ cái khác nhau ở mỗi hàng biểu thị mức quan trọng và các chữ cái tương tự biểu thị mức không quan trọng).

Thu nhập từ việc bán sinh vật không mong muốn rất thấp so với chi phí bán tôm vì sinh vật không mong muốn có giá trị rất thấp (Bảng 9).

Bảng 9: Thu nhập từ việc bán sinh vật không mong muốn được thu thập từ các hệ thống lọc khác nhau.

*Mỗi đô la tương đương 300.000 IRR.

Ngoài ra, sản lượng giảm 1300-2400 kg/ha ở các trang trại sử dụng hệ thống lọc một hàng so với các trang trại sử dụng hệ thống lọc ba hàng (Bảng 10).

Bảng 10: So sánh sản lượng tính bằng kg/ha trong các hệ thống lọc khác nhau (các chữ cái khác nhau trong mỗi hàng biểu thị mức quan trọng và các chữ cái tương tự biểu thị mức không đáng kể).

Ở những trang trại sử dụng hệ thống lọc một hàng, thiệt hại kinh tế cao hơn đáng kể so với những trang trại sử dụng hệ thống lọc ba hàng do sản lượng tôm giảm và chi phí thức ăn tăng do sinh vật không mong muốn tiêu thụ thức ăn (Bảng 11).

Bảng 11: So sánh giá trị trung bình ± độ lệch chuẩn của tổn thất do tiêu thụ thực phẩm bởi các sinh vật không mong muốn, thiếu tôm bán do sản lượng tại trang trại giảm và tổng tổn thất trong các hệ thống lọc khác nhau (các chữ cái không giống nhau trong mỗi cột biểu thị ý nghĩa và các chữ cái tương tự biểu thị không có ý nghĩa).

*Mỗi đô la tương đương 300.000 IRR

Thảo luận

Dịch bệnh là một trong những thách thức lớn nhất đối với ngành nuôi trồng thủy sản, đặc biệt là nuôi tôm. Một trong những cách để ngăn chặn sự lây lan của dịch bệnh là tạo ra các rào cản vật lý trong ao nuôi tôm để ngăn chặn sự xâm nhập của các tác nhân gây bệnh. Bộ lọc cát lún là một phương pháp khử nước cho trang trại nuôi tôm dựa trên hệ thống thủy triều. Tuy nhiên, phương pháp này có liên quan đến nhiều vấn đề, bao gồm sự xâm nhập của các loài giáp xác không mong muốn.

Ngày nay, có nhiều hệ thống khử nước khác được sử dụng, bao gồm hệ thống lọc nước nhiều hàng và hệ thống lọc dựa trên trống lọc. Hệ thống mương nước cũng là một hệ thống hiệu quả trong việc ngăn chặn sự lây lan của dịch bệnh. Tuy nhiên, do thiết kế của các tổ hợp nuôi tôm ở tỉnh Bushehr, không có trang trại nào có ao chứa và chuẩn bị nước. Điều này làm tăng nguy cơ lây lan dịch bệnh.

Các trang trại nuôi tôm ở tỉnh Bushehr, Iran, thường sử dụng hệ thống lọc lưới 1000 micron để ngăn chặn sự xâm nhập của các sinh vật không mong muốn như cá hoang dã và các loài tôm khác. Tuy nhiên, hệ thống này không thể ngăn chặn sự xâm nhập của trứng và ấu trùng thủy sản. Để ngăn chặn sự xâm nhập của các sinh vật không mong muốn, kể từ năm 2019, các trang trại nuôi tôm ở Iran được yêu cầu sử dụng hệ thống lọc ba hàng. Hệ thống này bao gồm ba lớp lưới có kích thước lỗ khác nhau: 1000, 500 và 250 micron. Kết quả nghiên cứu cho thấy hệ thống lọc ba hàng có hiệu quả hơn hệ thống lọc lưới 1000 micron trong việc ngăn chặn sự xâm nhập của các sinh vật không mong muốn. Hệ thống này có thể ngăn chặn sự xâm nhập của trứng và ấu trùng thủy sản, từ đó giúp giảm nguy cơ dịch bệnh bùng phát.

Kết luận

Sự xâm nhập của các sinh vật không mong muốn vào ao nuôi tôm có thể gây ra nhiều vấn đề, bao gồm cạnh tranh thức ăn và lây lan dịch bệnh. Hệ thống lọc ba hàng với lưới 1000, 500 và 250 micron có thể hiệu quả hơn trong việc ngăn chặn sự xâm nhập của các sinh vật không mong muốn so với hệ thống lọc một hàng. Kết quả nghiên cứu cho thấy hệ thống lọc ba hàng có thể giảm lượng rác thải thu gom tại các trung tâm chế biến sau thu hoạch, giúp tăng sản lượng tôm nuôi, giảm chi phí sản xuất và nguy cơ dịch bệnh. Hệ thống lọc ba hàng là một giải pháp hiệu quả để ngăn chặn sự xâm nhập của các sinh vật không mong muốn vào ao nuôi tôm. Giải pháp này có thể giúp nâng cao năng suất và giảm thiểu rủi ro dịch bệnh.

Theo Pazir M.K.; Pourmozaffar S.; Fathi A.R.; Ehteshami F.; Nazari M.A.

Nguồn: https://www.academia.edu/113160348/Evaluation_of_different_water_filtration_systems_functions_in_shrimp_farms

Biên dịch: Nguyễn Thị Quyên – Tôm Giống Gia Hóa Bình Minh

TÔM GIỐNG GIA HÓA – CHÌA KHÓA THÀNH CÔNG

Xem thêm:

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *