Đây là thông tin hiển thị trên website, KHÔNG dùng để quét mã QR. Vui lòng liên hệ 1900 86 68 69 nếu link QR dẫn đến trang web này.
Đây là thông tin hiển thị trên website, KHÔNG dùng để quét mã QR. Vui lòng liên hệ 1900 86 68 69 nếu link QR dẫn đến trang web này.

Nghề nuôi tôm ở Việt Nam đang phải đối mặt với thách thức là lợi nhuận thấp và suy thoái môi trường. CK, người sáng lập Rongbient, muốn cải thiện cả hai mặt của phương trình này với sự trợ giúp của một mô hình mới sử dụng rong biển làm bộ lọc sinh học, thành phần thức ăn và là nguồn thu nhập bổ sung cho những người nông dân quy mô nhỏ.

Người sáng lập Rongbient, Cường Hà (được biết đến rộng rãi với tên CK) đang thảo luận với một số thành viên trong nhóm Rongbient 

Khi đối mặt với thực tế về nuôi tôm ở Việt Nam, thật khó để không kết luận rằng ngành này vẫn rất kém hiệu quả, đồng thời phải vật lộn để hạn chế những tác động tiêu cực của nó đến môi trường. Một tấn tôm từ các trang trại thâm canh phát thải 14 tấn khí thải carbon, trong khi thức ăn được nhập khẩu và sử dụng kháng sinh cao, dẫn đến chi phí sản xuất gấp đôi so với đối thủ cạnh tranh hàng đầu Ecuador.

Mặt khác, hoạt động nuôi tôm quảng canh của các hộ nông dân nhỏ lẻ thường không được xử lý nước đúng cách dẫn đến hiệu quả nuôi rất thấp. Kết quả là, chưa đến một phần ba số tôm sống sót, thu nhập của người nuôi giảm sút, ao nuôi bị xuống cấp nhanh chóng và chất thải thải ra môi trường mà không qua xử lý, gây ảnh hưởng tiêu cực đến hệ sinh thái xung quanh.

Ngoài ra, do chủ yếu là canh tác mở rộng, diện tích đất sử dụng cho ao nuôi tôm ở Việt Nam cũng đáng kể. Với gần 750.000 ha, gấp khoảng ba lần so với Ecuador, ngay cả khi sản lượng thấp hơn.

“Đó là những câu hỏi đã khởi đầu cho Rongbient ”, CK nói: “làm thế nào chúng ta có thể cải thiện năng suất của những vùng đất này và tăng thu nhập cho người nông dân, đồng thời giảm chi phí cho các trang trại thâm canh và tác động môi trường liên quan? Rong biển, đặc biệt là Gracilaria, sau đó đã trở thành giải pháp của chúng tôi”.

Một cách mới để trồng Gracilaria

Indonesia là nước trồng Gracilaria lớn nhất trong nhiều thập kỷ, cung cấp cho ngành công nghiệp agar của thế giới. Theo truyền thống, Gracilaria được trồng ở đáy ao, thường có thêm phân bón để đẩy nhanh quá trình.

Rongbient đã lựa chọn thay thế phương pháp truyền thống bằng cách sử dụng một hệ thống lưới đặt trên bề mặt ao nuôi tôm. CK chia sẻ: “Chúng tôi quyết định sử dụng lưới bề mặt để tận dụng ánh sáng mặt trời trực tiếp, từ đó thúc đẩy sự phát triển của rong. Loại lưới này cần có độ mịn nhất định, vì Gracilaria dễ bị gãy, nếu không cẩn thận, sẽ mất một lượng lớn sinh khối xuống đáy ao. Tất nhiên, vì nuôi ghép với tôm, chúng tôi không cần phải bổ sung thêm chất dinh dưỡng như họ làm ở Indonesia.

“Với thử nghiệm đầu tiên, chúng tôi đạt được tốc độ tăng trưởng khoảng 2,5% mỗi ngày. Hiện tại, chúng tôi đạt 3,2% mỗi ngày, nhưng chúng tôi biết vẫn còn chỗ để cải thiện – chúng tôi thậm chí còn chưa bắt đầu tối ưu hóa chủng loại này.”

Công ty khởi nghiệp sử dụng hệ thống cho thuê để khuyến khích áp dụng. “Chúng tôi không yêu cầu nông dân thay đổi hoàn toàn cách làm của họ. Chúng tôi đặt hệ thống canh tác lên trên ao và để nó phát triển. Cứ hai tháng một lần, chúng tôi đến và lấy sản phẩm thu hoạch. Không có chi phí trả trước, người nông dân chỉ trả cho chúng tôi phí thuê vào thời điểm thu hoạch”, CK cho biết.

“Chúng tôi hiện đang canh tác thử nghiệm trên một vài hecta đất và đã có thể tăng gấp đôi thu nhập của người nông dân nhờ bán rong biển và cải thiện tỷ lệ sống của tôm từ 33% lên 42%”, ông nói thêm.

Rongbient sử dụng một kỹ thuật mới liên quan đến lưới bề mặt để nuôi Gracilaria trong ao nuôi tôm của mình 

Phản hồi

Sau khi thu hoạch, Rongbient chế biến rong biển thành phụ gia thức ăn cho các trang trại nuôi tôm thâm canh. Phụ gia thức ăn từ rong biển đang dần được ưa chuộng trên khắp Châu Á vì chúng cho thấy kết quả tốt trong việc giảm tỷ lệ mắc EHP, WFS và EMS , đồng thời cải thiện FCR , thậm chí có khả năng chống lại Vibrio.

Tại Việt Nam, Rongbient đã chứng kiến ​​những kết quả tích cực tương tự trong dự án thí điểm của mình. CK mở rộng: “Chúng tôi đã thấy tỷ lệ sống sót tăng lên. Sản lượng tăng từ 5 đến 8%. Mặc dù chúng tôi đã chứng kiến ​​tỷ lệ chuyển đổi thức ăn giảm, nhưng trọng tâm chính của chúng tôi là các chất phụ gia thức ăn: kháng sinh, men vi sinh, v.v. Cho đến nay, chúng tôi đã giảm được 20% lượng sử dụng.

“Chúng tôi sắp bắt đầu một dự án thí điểm với một trong những nhà xuất khẩu tôm lớn nhất để có thêm dữ liệu và cải thiện những con số đó. Chúng tôi đặt mục tiêu cắt giảm 50% việc sử dụng chất phụ gia nếu chúng tôi có đủ nguồn lực để thiết kế sản phẩm.”

“Cấu trúc chi phí nuôi tôm ở Việt Nam là 50 đến 70% cho thức ăn, với các chất phụ gia chiếm 20 đến 30% khác. Nếu có thể cắt giảm 50% các chất phụ gia đó, nghĩa là sẽ giảm 10 đến 15% tổng chi phí. Con số đó gần bằng biên lợi nhuận hàng năm của người nông dân. Và nếu đồng thời nâng cao được tỷ lệ sống sót của tôm, lợi nhuận có thể tăng gấp đôi. Đó chính là giá trị cốt lõi mà chúng tôi mang đến.”

“Điều đáng nói là việc sử dụng kháng sinh bị cấm thường xuyên dẫn đến việc tôm Việt Nam bị từ chối nhập khẩu vào Hoa Kỳ và EU, do đó, đây không chỉ là vấn đề tiết kiệm chi phí”.

Một vụ thu hoạch Gracilaria bội thu, sẵn sàng để chế biến 

Mở rộng mô hình

Với gần nửa triệu đô la tiền đặt hàng trước, Rongbient đang ở vị thế đáng ghen tị khi gặp vấn đề về thiếu nguồn cung rong biển chứ không phải thiếu cầu.

CK cho biết: “Chúng tôi bắt đầu ở Cà Mau, Đồng bằng sông Cửu Long, nơi chúng tôi hiện có một số hecta đang canh tác. Chúng tôi đang triển khai thêm một vài hecta nữa trong quý tới để tạo thêm sức hút và doanh thu.

Các đối tác chính phủ của chúng tôi thực sự tích cực về hệ thống của chúng tôi. Họ nói với chúng tôi: ‘nếu có thể tăng gấp đôi thu nhập của những người nuôi tôm, thì chúng tôi muốn mô hình này xuất hiện trong cộng đồng của mình. Nếu có thể mở rộng quy mô lên 20.000-30.000 ha, điều đó đã rất tuyệt vời. Nhưng nếu làm được nhiều hơn nữa, thì càng tốt.’

Với tổng diện tích nuôi tôm ở Cà Mau lên tới 280.000 ha, tiềm năng phát triển là vô cùng lớn.”

Mặc dù kết quả ban đầu cho đến nay rất khả quan, việc tìm nguồn tài chính để mở rộng giải pháp này vẫn là một thách thức lớn.

Như CK đã lưu ý: “Chúng tôi hiện đang cố gắng huy động 500.000 đô la trong vòng hạt nhân để mở rộng nguồn cung và cải thiện quy trình chế biến. Tuy nhiên, Việt Nam thường bị các nhà đầu tư quốc tế đánh giá là thị trường quá rủi ro hoặc quá nhỏ, trong khi các nhà đầu tư trong nước lại có xu hướng ưu tiên những mô hình đã được kiểm chứng ở nước ngoài và có thể dễ dàng điều chỉnh để phù hợp với thực tế địa phương.”

“Đối với một người xuất thân từ lĩnh vực phần mềm như tôi, việc cố gắng tìm kiếm nguồn tài trợ cho một giải pháp thực tế như thế này cho đến nay là một hành trình đầy trải nghiệm và nhiều điều đáng để suy ngẫm,” CK chia sẻ thêm.

Rongbient có kế hoạch sử dụng một số sản phẩm Gracilaria thu hoạch từ ao nuôi tôm làm nguyên liệu thức ăn thủy sản 

Theo Steven Hermans

Nguồn: https://thefishsite.com/articles/rongbient-shrimp-and-seaweed-a-recipe-for-success-for-vietnam

Biên dịch: Nguyễn Thị Quyên – Tôm Giống Gia Hoá Bình Minh

Xem thêm:

TÔM GIỐNG GIA HÓA – CHÌA KHÓA THÀNH CÔNG

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

You cannot copy content of this page