Lượng tôm dung cho tiêu thụ phải được kiểm soát tất cả các tác động trực tiếp lên con người.
Khi thuốc kháng sinh được sử dụng đúng cách, nghĩa là việc sử dụng chúng được đưa ra bởi những phân tích dựa trên cơ sở khoa học về nguyên nhân cơ bản gây chết, chúng có thể là công cụ rất hữu ích. Ảnh của Darryl Jory.
Việc Alexander Fleming tình cờ phát hiện ra kháng sinh penicillin vào cuối những năm 1920 đã thay đổi kiến thức về y học cho con người và động vật. Ban đầu, việc sử dụng kháng sinh chủ yếu là hạn chế tác động của các bệnh truyền nhiễm ở người. Nhưng khi việc sử dụng kháng sinh tăng lên, người ta nhận thấy rằng chúng cũng có thể đóng một vai trò quan trọng đối với động vật vì chúng mang lại hiệu quả, an toàn và rẻ tiền.
Nhận thấy được những lợi ích tích cực của kháng sinh, người ta đã sử dụng chúng với mức độ ngày càng tăng, không chỉ để phòng ngừa và/hoặc điều trị bệnh mà còn đối với tăng trưởng và sức khỏe tổng thể của vật nuôi. Việc cho vật nuôi ăn kháng sinh từ khi sinh ra đến khi giết mổ đã trở thành một quy trình tiêu chuẩn cho nhiều loài khác nhau.
Sản lượng nuôi trồng thủy sản toàn cầu tăng trưởng nhanh chóng trong 50 năm qua. Ước tính cho thấy sản lượng nuôi trồng thủy sản vào năm 2019 đạt ở mức gần bằng hoặc vượt mức sản lượng khai thác, khoảng 100 triệu tấn mỗi năm. Quá trình chuyển đổi từ đánh bắt sang nuôi trồng đã kéo theo nhiều thách thức cho ngành nông nghiệp lẫn thủy sản.
Rất nhiều nghiên cứu đã làm sáng tỏ điều mà Tiến sĩ Fleming “tình cờ” phát hiện ra. Nhiều loại kháng sinh đang được sử dụng ngày nay, trong đó phổ biến nhất là loại kháng sinh tổng hợp có nguồn gốc tự nhiên. Thương mại hóa là một việc rất tốn kém, đòi hỏi phải làm việc với nhiều cơ quan chính phủ và cần một lượng lớn mẫu để thử nghiệm. Một khi vi khuẩn kháng kháng sinh xuất hiện, việc phát triển các loại kháng sinh khác sẽ giảm. Ngày nay, việc sử dụng các phương pháp cũ để phát triển các loại kháng sinh mới đã không còn phổ biến. Khi việc sử dụng kháng sinh và tính sẵn có của chúng tăng lên, rõ ràng là các mầm bệnh mà chúng ta đang cố phòng ngừa để không gây chết người và động vật đang làm tăng khả năng kháng thuốc và làm hạn chế tính hữu dụng của kháng sinh.
Tại sao lại bận tâm về việc sử dụng kháng sinh?
Ước tính có khoảng hơn 1 triệu chết người mỗi năm vì nhiễm các mầm bệnh kháng kháng sinh. Đến năm 2050, ước tính con số này sẽ tăng lên đến hơn 10 triệu người chết mỗi năm. Những trường hợp tử vong này có thể được ngăn ngừa nếu việc sử dụng kháng sinh bừa bãi (chứ không chỉ lạm dụng) được hạn chế.
Hầu hết các quốc gia đều có những quy định về liều lượng và cách thức sử dụng kháng sinh. Tuy nhiên, việc thực thi có thể lỏng lẻo hoặc thậm chí là không được áp dụng đã dấn đến việc sử dụng bừa bãi kháng sinh. Lý do cụ thể cho những điều này là rất phức tạp. Đối với ngành tôm, có lẽ lý do lớn nhất cho việc sử dụng kháng sinh bừa bãi là các phương pháp nuôi truyền thống không dựa trên cơ sở khoa học. Thông thường, khi nông dân gặp phải những vấn đề về sức khỏe vật nuôi, họ không biết chuyện gì đang xảy ra. Mặc dù cơ quan kiểm dịch có thể phân lập và xác định các mầm bệnh tiềm ẩn, nhưng bệnh thường do nhiều yếu tố với nhiều tác nhân gây bệnh gây ra, trong đó có các tác nhân gây căng thẳng. Có rất ít nông dân thật sự hiểu về các tác nhân gây bệnh, nếu họ có thể hiểu được, tác nhân gây bệnh thực sự đã được tìm ra.
Hầu hết tôm nuôi được sản xuất trong hệ thống nuôi nhỏ bởi các hộ nông dân có hoàn cảnh khó khăn. Họ có thể có một hoặc hai ao dựa trên điều kiện kinh tế của gia đình và thu nhập chủ yếu dựa vào các ao này. Khi dịch bệnh xảy ra, họ dùng đến phương pháp điều trị sẵn có là kháng sinh để trị bệnh cho tôm cũng như tránh những thiệt hại nghiêm trọng về kinh tế.
Khi thuốc kháng sinh được sử dụng đúng cách, nghĩa là việc sử dụng chúng được đưa ra bởi những phân tích dựa trên cơ sở khoa học về nguyên nhân cơ bản gây chết, chúng có thể là một công cụ rất hữu ích. Thật không may, hầu hết người nuôi tôm đều không nắm được những thông tin này, họ không chắc rằng việc sử dụng kháng sinh có mang lại hiệu quả hay không, và cũng không có cách nào có thể chứng minh việc này. Trớ trêu thay khi các bác sĩ cũng góp phần trong việc lạm dụng kháng sinh bằng cách kê đơn mà không có bằng chứng cho thấy chúng được chỉ định. Có nhiều người nghĩ rằng đây thực sự là lý do chính cho sự phát triển của các vi khuẩn kháng kháng sinh.
Ở Đông Nam Á (nơi sản xuất tôm lớn nhất thế giới), một thực tế phổ biến là sản lượng được thu hoạch từ những hộ nuôi nhỏ được gộp chung thành một lô. Nên khi dịch bệnh xảy ra, việc truy xuất nguồn gốc của lô tôm bệnh là không thể. Vì vậy, người nuôi thường sử dụng một loại kháng sinh cụ thể mà nhà máy thức ăn chăn nuôi, nhà máy chế biến, chuyên gia tư vấn sức khỏe động vật hoặc các nguồn khuyến nghị khác tại địa phương – một cách thường xuyên và bừa bãi – và họ cho rằng sự hiện diện của kháng sinh sẽ không bị phát hiện. Các mô hình sản xuất nhỏ bởi những hộ nuôi có hoàn cảnh khó khăn rất dễ lạm dụng kháng sinh. Việc sử dụng kháng sinh vô trách nhiệm về lâu dài sẽ dẫn đến một vụ nuôi thất bại.
Có hai vấn đề chính liên quan đến việc sử dụng kháng sinh đáng được quan tâm. Vấn đề đầu tiên, cũng là vấn đề quan trọng nhất, là sự phát triển của vi khuẩn kháng kháng sinh (AMR). Tình trạng này dẫn đến việc sử dụng kháng sinh không mang lại hiệu quả. Vấn đề thứ hai là về dư lượng. Vấn đề này không phải là vấn đề nguy hiểm đối với sức khỏe của con người. Sự hiện diện của dư lượng là một dấu hiệu cho thấy một loại kháng sinh cụ thể đã được sử dụng.
Việc lạm dụng thuốc kháng sinh diễn ra khá phổ biến: cố ý sử dụng kháng sinh mặc dù chúng bị cấm sử dụng đối với loài vật nuôi cụ thể ; sử dụng liều lượng quá cao vì tình trạng kháng thuốc; sử dụng vô trách nhiệm các sản phẩm có chất lượng kém và không có nguồn gốc rõ ràng; các công ty bán các sản phẩm có chứa kháng sinh thông tin đến người nuôi về lợi ích của chúng nhưng thực tế không hiệu quả như đã họ đã nói, v.v. Kết quả cuối cùng là khi tôm được thu hoạch, có thể phát hiện được dư lượng từ việc sử dụng kháng sinh trong thức ăn của người tiêu dùng.
Chúng có thể bao gồm từ bản thân kháng sinh thô, không chuyển hóa đến các phụ phẩm trao đổi chất mà động vật tiêu thụ tạo ra khi chúng phân hủy và phá vỡ kháng sinh. Điều này có thể khiến việc nuôi trồng của cả một quốc gia bị cấm hoặc phải đối mặt với sự giám sát chặt chẽ của cơ quan quản lý, và cuối cùng ảnh hưởng đến lợi nhuận. Ấn Độ hiện đang đối mặt với vấn đề này và các nguồn tin cho biết Trung Quốc đã bắt đầu cấm nhập khẩu tôm nuôi từ Ấn Độ do tồn dư kháng sinh luôn ở mức cao. Vấn đề này sẽ không thể tự giải quyết nếu không có những thay đổi trong cách nuôi tôm.
Tìm hiểu thêm về AMR
Vai trò của thuốc kháng sinh trong y học đối với con người là rất quan trọng, bởi vì có đến hàng triệu sinh mạng được cứu mỗi năm nhờ thuốc kháng sinh. Việc phát triển các loại kháng sinh mới rất tốn kém và mất thời gian. Bằng chứng về tính an toàn và hiệu quả, chu kỳ bán rã chuyển hóa, phạm vi sử dụng, v.v. là một trong những yếu tố cần thiết để có thể tiếp thị và bán chúng. Thật không may, sự phát triển của các vi khuẩn kháng kháng sinh là điều không thể tránh khỏi.
Ngày nay, một số lượng lớn các chất kháng sinh được sản xuất tự nhiên bởi vi khuẩn và nấm. Các hợp chất này là một công cụ quan trọng để vi sinh vật đảm bảo khả năng tiếp cận các chất dinh dưỡng cần thiết cho sự phát triển. Chúng rất đa dạng về mặt hóa học và hiện diện ở khắp nơi. Vi sinh vật sống thành tập đoàn, phức tạp, rộng lớn, được gọi là quần thể vi sinh vật, và phát triển khi môi trường xung quanh chúng thay đổi. Thuốc kháng sinh là một yếu tố rất quan trọng thúc đẩy quá trình thay đổi này.
Việc sử dụng kháng sinh trong nuôi trồng thủy sản nói chung là một áp lực thúc đẩy sự tiến hóa. Lạm dụng có thể nhanh chóng làm tăng tác động của những áp lực này, dẫn đến việc một số vi khuẩn trở nên kháng thuốc (đòi hỏi liều lượng cao hơn để đạt được hiệu quả) hoặc kháng thuốc (không có liều nào tiêu diệt được mầm bệnh mục tiêu). Điều này thường là kết quả của sự hiện diện bởi một tỷ lệ nhỏ quần thể mục tiêu có chứa các gen kháng thuốc đối với AMS có mặt ngay từ đầu. Đây là lý do tại sao việc sử dụng kháng sinh hợp lý là rất quan trọng. Tải lượng mầm bệnh phải được giảm bớt để hệ thống miễn dịch của vật nuôi có thể “dọn sạch” tất cả các vi khuẩn.
Việc sử dụng kháng sinh không đúng cách không thể làm được điều này, tức là không thể tiêu diệt được tất các vi khuẩn, cuối cùng dẫn đến vật nuôi bị nhiễm vi khuẩn kháng thuốc.
Vi khuẩn kháng loại kháng sinh này có thể liên quan đến việc kháng loại kháng sinh khác. Kháng kháng sinh xảy ra thông qua việc chuyển các vòng DNA hình tròn, nhỏ, được gọi là plasmid, dễ dàng kết hợp với nhau để tạo ra nhiều chủng kháng kháng sinh. Việc sử dụng không đúng cách (liều lượng cao hơn, thời gian sử dụng ngắn hơn, ngừng sử dụng khi các triệu chứng thuyên giảm, v.v.) có thể dẫn đến hiện tượng kháng kháng sinh. Kháng kháng sinh xảy ra ngay cả khi sử dụng có trách nhiệm, mặc dù đã sử dụng ở tần suất thấp hơn. Việc luân phiên sử dụng các loại kháng sinh khác nhau và theo dõi tình trạng kháng thuốc là rất quan trọng để hạn chế sự phát triển của các vi khuẩn kháng thuốc. Thật không may, hầu hết người nuôi tôm đều không thực hiện điều này, và khi kháng kháng sinh xảy ra, người giúp họ lại là những người bán kháng sinh cho họ lúc đầu.
Tìm hiểu thêm về dư lượng
Trừ khi lượng tồn dư kháng sinh gây độc cho con người, bao gồm cả phản vệ (phản ứng dị ứng nghiêm trọng, có khả năng đe dọa tính mạng), thì mức độ tồn dư được tìm thấy mới được xem là vấn đề. Lượng tôm (hoặc cá) sẽ phải được tiêu thụ để đạt được mức gần với liều điều trị có khả năng hạn chế mọi tác động đáng kể trực tiếp đối với người tiêu dùng và hệ vi sinh vật của họ. Nếu giới hạn dư lượng cho phép là 1 ppm, thì liều điều trị tương đương với 1 gam trong 1 tấn. Ít hơn một nghìn lần so với mức này, 1 ppb, tương đương với 1 mg trong 1 triệu tấn. Vì vậy, đối với một hợp chất có giới hạn dư lượng cho phép là một phần tỷ, để có được liều điều trị tương đương (bằng đường uống), ví dụ như 1 gam, người ta sẽ phải ăn 1.000 tấn tôm. Rõ ràng điều này làm giảm rủi ro xuống gần bằng 0 khi người ta nhận thấy được những tác động bất lợi từ sự hiện diện của dư lượng.
Người ta ước tính rằng người tiêu dùng ở Hoa Kỳ sẽ ăn khoảng 150 tỷ pound thịt bò và gia cầm vào năm 2019. Gần đây, FDA mới cấm sử dụng nhiều loại kháng sinh trong nông nghiệp được coi là cần thiết để sử dụng trong điều trị bệnh cho con người. Mặc dù việc sử dụng hợp pháp nhiều loại trong số này đã bị hạn chế trong việc điều trị bệnh và không được sử dụng làm chất kích thích tăng trưởng, nhưng điều này rất khó thực thi, vì bác sĩ thú y có thể quyết định và kê đơn điều trị dự phòng (phòng ngừa bệnh). Tuy nhiên, lệnh cấm này đã không ngăn được việc sử dụng bất hợp pháp nhiều loại kháng sinh và dư lượng kháng sinh là phổ biến.
Mức dư lượng được cho phép thường dựa trên các quan sát khoa học về cách các hợp chất được chuyển hóa, nhằm mục đích hướng dẫn về liều lượng và thời gian sử dụng. Tất nhiên, việc kiểm tra tất cả các loài vật nuôi là điều không thể. Thay vào đó, khi giết mổ, vật nuôi sẽ được lấy mẫu ngẫu nhiên để kiểm tra kháng sinh trong cơ thể, và một số trong số đó chứa gần 400 hóa chất có thể xâm nhập vào chuỗi thức ăn của chúng ta (chủ yếu là thuốc trừ sâu).
Có nhiếu ý kiến cho rằng thịt được sản xuất tại Hoa Kỳ sẽ không được phép nhập khẩu vào một số quốc gia khác. Rõ ràng là cần có một tiêu chuẩn nhất quán được thông qua, xem xét tất cả các yếu tố khác nhau để tránh tiêu chuẩn kép. Tuy nhiên, nhiều quốc gia không gặp vấn đề gì khi sử dụng cùng loại kháng sinh đối với người và động vật. Có một thực tế là ở nhiều nước nuôi tôm lớn, kháng sinh được cung cấp miễn phí mà không cần hướng dẫn sử dụng, và các cơ sở cung cấp thuốc thú y có thể dự trữ hàng tấn thuốc kháng sinh để dự đoán khách hàng của họ muốn sử dụng loại nào. Đây là một thực tế vô trách nhiệm nhưng phổ biến.
Để bán vào một thị trường nhất định, một số thử nghiệm nhất định phải được tiến hành để đảm bảo rằng không có dấu hiệu cho thấy kháng sinh đã được sử dụng trong chu kỳ sản xuất. Các xét nghiệm này luôn bị giới hạn bởi cách thức xét nghiệm hoặc các phụ phẩm chuyển hóa của các loại kháng sinh. Thử nghiệm được thực hiện bằng cách sử dụng phương pháp thống kê, nhưng bị hạn chế, và thực tế là thiếu trách nhiệm trong việc tìm kiếm bằng chứng về việc sử dụng không đúng cách. Kết quả là, nhiều vật nuôi có chứa dư lượng vẫn đi vào chuỗi thức ăn.
Các loại kháng sinh được quan tâm nhiều nhất thường là các loại kháng sinh tổng hợp từ các hợp chất tự nhiên, vì chúng được sử dụng rộng rãi để điều trị bệnh cho con người. Các yếu tố bao gồm loài được thử nghiệm, mô được thử nghiệm, điều kiện nuôi dưỡng (nhiệt độ, độ mặn và các thông số khác), di truyền, độ tinh khiết và nguồn gốc của kháng sinh, và các điều kiện mà kháng sinh được lưu trữ, sự hiện diện của động vật không phải mục tiêu trong quần thể, v.v., tất cả đều đóng vai trò dẫn đến sự hiện diện của dư lượng khi thu hoạch. Hiện nay, dư lượng là cách chính để phát hiện việc sử dụng AMR bất hợp pháp.
Chúng ta nên loại khỏi môi trường những gì không cần thiết và/hoặc có hại càng nhiều càng tốt. Những rủi ro và lợi ích của việc này phải được xem xét. Việc ban lệnh cấm tuyệt đối đối với việc sử dụng bất kỳ loại kháng sinh nào không mang lại hiệu quả có thể giảm thiểu đáng kể thiệt hại về tài chính, vì chỉ nên sử dụng kháng sinh xác định nguyên nhân gây bệnh dựa trên cơ sở khoa học. Ở Hoa Kỳ, việc sản xuất tôm sẽ bất hợp pháp nếu chúng không được kiểm tra đầy đủ hết tất cả các loại kháng sinh.
Một điều trớ trêu nữa trong toàn bộ vấn đề này là sự hiện diện của tảo nở hoa (HAB) gây hại trong ao nuôi tôm. Tôm thường được nuôi thành công trong các trong các ao có chứa các hệ vi sinh vật hiện diện ở mức độ vừa phải, cho phép sản xuất tối ưu. Một số lượng lớn các phụ phẩm trao đổi chất được bài tiết bởi số lượng lớn vi khuẩn, tảo, nấm men, v.v. thực sự là nguồn sinh khối lớn trong ao.
HAB tạo ra nhiều loại độc tố có thể giết chết cá/tôm một cách nhanh chóng và gây bệnh, hoặc thậm chí giết chết cả con người. Chỉ một số lượng rất nhỏ trong tổng số hiện tại được mô tả. Những chất độc này không được kiểm tra thường xuyên, mặc dù thực tế, rất có thể là một trong số chúng, như BMAA, là thủ phạm tiềm ẩn gây bệnh thoái hóa thần kinh, rất có khả năng xuất hiện trong các ao có mật độ tảo lam cao.
Có vẻ như khi trái đất ấm lên (biển đổi khí hậu), thì mức độ và loại chất độc sẽ tăng lên. Có thể có rất nhiều thứ trong tất cả những gì chúng ta ăn mà chúng ta không biết được. Cuối cùng, sự hiện diện của những chất độc này có khả năng gây hại cho người tiêu dùng nhiều hơn so với mức dư lượng kháng sinh đòi hỏi phải tiêu thụ một lượng tôm khổng lồ.
Việc sử dụng kháng sinh trong tôm và cá nuôi ảnh hưởng đến người tiêu dùng và việc xuất khẩu tôm cá. Không phải ai cũng có những mối quan tâm giống nhau. Kháng sinh có thể tồn tại trong cơ thể vật nuôi suốt vòng đời của nó, cũng như các chất chuyển hóa không được bài tiết. Mỗi hợp chất hóa học có một con đường chuyển hóa để bài tiết. Một trong những câu hỏi cần phải được giải quyết là:
- Những chất chuyển hóa được chia nhỏ như thế nào?
- Chất chuyển hóa được chia thành những chất gì?
- Trải qua bao nhiêu quá trình để chất chuyển hóa được bài tiết?
- Chất chuyển hóa có được bài tiết không, và nếu có thì bằng cách nào?
- Nếu một phần hoặc toàn bộ chất chuyển hóa không được bài tiết, thì chúng ở đâu? Và ở dạng nào?
- Môi trường tác động đến quá trình chuyển hóa như thế nào?
Thử nghiệm phân tích các mẫu “ngẫu nhiên” là cách kiểm soát việc sử dụng kháng sinh. Các mẫu được kiểm tra còn tùy thuộc vào tổ chức nào kiểm tra chúng, chúng đang ở quốc gia nào và sẽ được tiêu thụ ở đâu. Trên thực tế, việc lấy mẫu này không đủ để đảm bảo mức độ tuân thủ cao. Thử nghiệm các mẫu từ các trang trại riêng lẻ trước khi tổng hợp và hợp tác chặt chẽ hơn với tất cả các cấp của chuỗi cung ứng sẽ hiệu quả hơn trong việc đảm bảo rằng sản phẩm có chứa chất tồn dư hay không.
Cuối cùng, giám sát và quy định chặt chẽ hơn, các hình phạt nghiêm khắc hơn đối với các hành vi vi phạm cùng với việc truy xuất nguồn gốc tốt hơn nên trở thành tiêu chuẩn. Ngành công nghiệp cần ngừng trao quyền cho một hệ thống không thể đảm bảo đầy đủ cho người tiêu dùng rằng họ không tiêu thụ thực phẩm bị tạp nhiễm.
Quan điểm
Nên hạn chế việc sử dụng kháng sinh trong nuôi tôm. Kháng kháng sinh đặt ra một mối đe dọa cho tất cả chúng ta. Các cơ quan quản lý có thể ban hành luật áp dụng mức dư lượng bằng 0. Tuy nhiên, việc thực thi các luật này không đơn giản và có khả năng luật này sẽ thay đổi bất cứ lúc nào trong tương lai gần. Cần phải cân bằng giữa thực tế và lý thuyết để mang lại hiệu quả thực sự cho ngành.
Tốt nhất, chỉ nên sử dụng kháng sinh khi đã xác định được nguyên nhân cơ bản gây bệnh dựa trên cơ sở khoa học. Các bác sĩ ở Hoa Kỳ đã kê đơn thuốc kháng sinh cho bệnh nhân để trấn an tâm lý của họ, cũng như đối với người nuôi tôm ở Đông Nam Á, những người mà tình trạng tài chính phụ thuộc hết vào mô hình sản xuất nhỏ của mình. Quy trách nhiệm cho các bác sĩ sẽ dễ dàng hơn quy trách nhiệm cho người nuôi tôm, mặc dù cả hai điều này sẽ không giải quyết được thực tế rằng tình trạng kháng thuốc ít nhiều vẫn xảy ra và có rất ít động lực tài chính để phát triển các loại kháng sinh mới.
Thực tế, việc sử dụng kháng sinh hợp lý và đúng cách không phải là mục tiêu chính. Tiêu chuẩn kép liên quan đến sự an toàn của thực phẩm có chứa dư lượng sẽ tồn tại cho đến khi có một thỏa thuận ràng buộc chung của tất cả các bên để tập trung vào dư lượng của bất kỳ hợp chất nào, không chỉ riêng kháng sinh, đồng thời sẽ phát triển các phương pháp mới để phát hiện dư lượng.
Theo Tiến sĩ Stephen G. Newman.
Nguồn: https://www.globalseafood.org/advocate/why-are-antibiotic-residues-in-farmed-shrimp-a-big-deal/
Biên dịch: Huyền Thoại – Tôm Giống Gia Hóa Bình Minh
“Tôm Giống Gia Hóa – Chìa Khóa Thành Công”
Xem thêm:
- Tin Mừng Cho Các Nhà Sản Xuất Tôm Khi Hiệu Suất Tăng Trưởng Được Cải Thiện Với Thức Ăn Có Hàm Lượng Protein Thấp Hơn
- Tổng Hợp Về Bệnh Vi Bào Tử Trùng EHP Trên Tôm
- Axit Hữu Cơ Và Muối Vi Nang Có Lợi Trong Sản Xuất Tôm Thẻ Chân Trắng