Đây là thông tin hiển thị trên website, KHÔNG dùng để quét mã QR. Vui lòng liên hệ 1900 86 68 69 nếu link QR dẫn đến trang web này.
Đây là thông tin hiển thị trên website, KHÔNG dùng để quét mã QR. Vui lòng liên hệ 1900 86 68 69 nếu link QR dẫn đến trang web này.

3. Kết quả

3.1 Hiệu suất tăng trưởng và sử dụng thức ăn

Việc bổ sung các nồng độ khác nhau của phụ gia thức ăn S. platensis (SP) vào thức ăn đã cải thiện đáng kể các chỉ số tăng trưởng và lượng thức ăn tiêu thụ của tôm thẻ chân trắng L. vannamei (Bảng 3). Tôm được cho ăn 8 g/kg (T4) phụ gia thức ăn cho thấy hiệu suất tăng trưởng cao nhất (tăng trưởng 9,73 g), tiếp theo là T3 (6 g/kg), T2 (4 g/kg), T1 (2 g/kg) và nhóm đối chứng T0 (không có phụ gia thức ăn). SP đã cải thiện đáng kể FCR và FI của tôm thẻ chân trắng L. vannamei trong tất cả các nhóm bổ sung SP so với nhóm T0 (Bảng 3). Tương tự như hiệu suất tăng trưởng, nhóm tôm T4 cho thấy FCR thấp nhất và FI cao nhất. Không có sự thay đổi đáng kể nào về tỷ lệ sống sót giữa năm nghiệm thức (P > 0,05); tuy nhiên, nghiệm thức T4 duy trì tỷ lệ sống cao nhất (76,67%), tiếp theo là T3 (75%), T2 (73,33%), T1 (71,67%) và đối chứng T0 (68,33%). T1-T4 cho thấy giá trị tốc độ tăng trưởng riêng (SGR) cao hơn đáng kể (2,10–2,27) so với đối chứng.

Bảng 3 Hiệu suất tăng trưởng và sử dụng thức ăn của tôm thẻ chân trắng (L.vannamei) được cho ăn khẩu phần ăn bổ sung Spirulina platensis trong 56 ngày

Các chữ số mũ trong mỗi cột biểu thị sự khác biệt đáng kể (P < 0,05) giữa các bản sao sinh học. Năm mức độ bao gồm SP đã được xây dựng: T0 = 0,0 g, T1 = 2,0 g, T2 = 4,0 g, T3 = 6,0 g, T4 = 8,0 g và chu kỳ thử nghiệm kéo dài 56 ngày.

3.2 Thành phần sinh hóa toàn thân

Các khẩu phần ăn cho tôm bổ sung PS khô ở các nồng độ khác nhau cho thấy sự cải thiện đáng kể (P ≤ 0,05) về hàm lượng thành phần hóa học toàn thân (Bảng 4). Các khẩu phần ăn cho tôm có chứa 8 g SP ghi nhận hàm lượng protein thô cao nhất (170,8), tiếp theo là T3 (170,10), T2 (167,5), T1 (167,1) và đối chứng T0 (161,8). Một xu hướng tương tự đã được quan sát thấy ở hàm lượng tro, nhưng xu hướng ngược lại xảy ra ở hàm lượng lipid thô. Lượng phụ gia thức ăn SP cao hơn có tương quan với hàm lượng lipid thô thấp hơn (P ≤ 0,05) trong tôm và khẩu phần ăn đối chứng ghi nhận hàm lượng lipid cao nhất (Bảng 4). Không có thay đổi đáng kể nào được quan sát thấy trong hàm lượng ẩm giữa tất cả các nhóm (P > 0,05).

Bảng 4 Thành phần toàn thân (trung bình ± SE, n = 3) của tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei) trong 56 ngày

Các chữ số mũ trong mỗi cột biểu thị sự khác biệt đáng kể (P < 0,05) giữa các bản sao sinh học. Năm mức độ bao gồm SP đã được xây dựng: T0 = 0,0 g, T1 = 2,0 g, T2 = 4,0 g, T3 = 6,0 g, T4 = 8,0 g và chu kỳ thử nghiệm kéo dài 56 ngày

3.3 Hoạt động chống oxy hóa và peroxy hóa lipid

Các nồng độ khác nhau của SP khô đã cải thiện đáng kể hoạt động của enzyme chống oxy hóa ở L. vannamei (Hình 1). Hoạt động của CAT, SOD và GPx cao hơn đáng kể ở tất cả các con tôm được bổ sung SP. Nghiệm thức T4 cho thấy mức tăng đáng kể cao nhất. Xu hướng hoạt động của SOD, CAT và GPx là T4 ≥ T3 > T2 > T1 > T0. Ngược lại, mức MDA thấp hơn đáng kể ở L. vannamei được cho ăn SP so với đối chứng (Hình 1).

Hình 1. (A-D). Tác động của các mức độ khác nhau của Spirulina platensis (SP) lên các chỉ thị sinh học chống oxy hóa bao gồm superoxide dismutase (SOD; Hình 1A), catalase (CAT; Hình 1B), glutathione peroxidase (GPx, Hình 1C) và peroxy hóa lipid (MDA, Hình 1D) ở tôm. Năm mức độ bao gồm SP đã được xây dựng: T0 = 0,0 g, T1 = 2,0 g, T2 = 4,0 g, T3 = 6,0 g, T4 = 8,0 g và peris thử nghiệm kéo dài 56 ngày. Các chữ cái khác nhau giữa các nhóm được coi là có ý nghĩa ở mức 5%.

3.4 Thử nghiệm cảm nhiễm với parahaemolyticus

Trong giai đoạn sau cảm nhiễm, tôm được bổ sung SP cho thấy tình trạng miễn dịch được cải thiện, dẫn đến tỷ lệ chết giảm ở các nghiệm thức (Hình 2). Nhóm được cho ăn 8 g/kg SP cho thấy tỷ lệ chết thấp hơn đáng kể (17%) ở tôm, tiếp theo là T3 (20%), T2 (37%) và T1 (47%). Tỷ lệ chết của tôm trong nhóm T4 không khác biệt đáng kể so với nhóm T3 (P ≤ 0,05). Tôm trong nhóm T0 cho thấy tỷ lệ chết cao nhất (57%) cao hơn đáng kể so với các nhóm khác (P ≤ 0,05). Do đó, tôm được cho ăn bột SP khô trong khẩu phần ăn làm chất bổ sung thức ăn có khả năng chống lại nhiễm trùng V. parahaemolyticus cao hơn so với nhóm không bổ sung.

Hình 2. Tỷ lệ chết tích lũy (%) của tôm thẻ chân trắng (L. vannamei) trong những ngày cảm nhiễm ở nồng độ Spirulina platensis khác nhau. Năm mức độ bao gồm SP đã được xây dựng: T0 = 0,0 g, T1 = 2,0 g, T2 = 4,0 g, T3 = 6,0 g, T4 = 8,0 g và peris thử nghiệm kéo dài 56 ngày.

3.5 Phát hiện bệnh lý mô học sau khi cảm nhiễm

Trong giai đoạn sau cảm nhiễm, bệnh lý mô học của cơ L. vannamei được thể hiện trong Hình 3 (A-E). Nhiễm trùng V. parahaemolyticus gây rách các tơ cơ, tăng khoảng trống trong các cơ sarcomere và không có kiểu cơ bình thường ở cơ tôm (Hình 3A). Tôm ăn khẩu phần ăn có chứa SP cho thấy sự cải thiện về cấu trúc cơ ở T3 (Hình 3D), T4 (Hình 3E), T2 (Hình 3C) và T1 (Hình 3B). Sau giai đoạn cảm nhiễm, phần gan tụy của tôm thẻ chân trắng L. vannamei được mô tả trong Hình 4. Nhiễm trùng V. parahaemolyticus gây bong tróc niêm mạc ống gan tụy, phân tán không bào và biến dạng tế bào gan tụy ở nhóm không bổ sung SP (Hình 4A). Tuy nhiên, tôm ăn khẩu phần ăn có chứa SP cho thấy sự cải thiện về chu vi trong nhân tế bào gan, niêm mạc ống và giảm xơ hóa ở T3 (Hình 4D), T4 (Hình 4E), T2 (Hình 4C) và T1 (Hình 4B).

Hình 3. (A-E). Các đĩa mô học vi mô của cơ L. vannamei được cho ăn các liều lượng SP khác nhau trong khẩu phần ăn. Năm mức độ SP đã được xây dựng: T0 = 0,0 g (Hình 3A), T1 = 2,0 g (Hình 3B), T2 = 4,0 g (Hình 3 C), T3 = 6,0 g (Hình 3D), T4 = 8,0 g (Hình 3E) và peris thử nghiệm kéo dài 56 ngày. S: Các tơ cơ vân, My: các sợi cơ, n: Nhân cơ, Mũi tên: Các mô liên kết dạng quầng và Dấu hoa thị: Một số sợi cơ bị rách nhẹ. (H&E và Thanh tỷ lệ → 50 µm).

Hình 4. (A-E). Hình ảnh mô học vi mô của gan tụy L. vannamei được cho ăn với liều lượng thức ăn khác nhau. Năm mức độ SP đã được xây dựng: T0 = 0,0 g (Hình 4A), T1 = 2,0 g (Hình 4B), T2 = 4,0 g (Hình 4C), T3 = 6,0 g (Hình 4D), T4 = 8,0 g (Hình 4E) và peris thử nghiệm kéo dài 56 ngày. T: Ống, Lu: Lòng ống, V: Không bào, Mũi tên mỏng: Tế bào B, mũi tên dày: Tế bào F, Ngôi sao: Tế bào R và Dấu hoa thị: Bong tróc một số lớp lót gan tụy. (H&E và Thanh tỷ lệ → 100 µm).

4. Thảo luận

Tiêu chí hiệu suất tăng trưởng trong nuôi trồng thủy sản được coi là một yếu tố quan trọng vì chúng thể hiện năng suất và chịu ảnh hưởng bởi nhiều biến số khác nhau, chẳng hạn như di truyền, số lượng và chất lượng thức ăn được cung cấp và các điều kiện môi trường vật lý (Canosa và Bertucci, 2023). Nghiên cứu hiện tại đã chứng minh rằng việc bổ sung SP lên tới 0,8% đã cải thiện đáng kể mức tăng trọng, trọng lượng cơ thể cuối cùng và SGR của tôm. Ngoài ra, việc bổ sung SP đã cải thiện FCR và hiệu quả sử dụng thức ăn ở tôm giống L. vannamei. Những phát hiện này phù hợp với Teimouri và cộng sự (2013) đã làm rõ rằng việc thay thế bột cá bằng SP với tỷ lệ 10% đã nâng cao hiệu suất tăng trưởng của cá hồi cầu vồng. Việc cho ăn SP khô dưới dạng chất bổ sung đã được chứng minh là có tác động đáng kể đến quá trình tăng trưởng, tỷ lệ sống sót và cấu trúc cơ thể ở tôm anh đào đỏ Caridean (Maryam và cộng sự, 2018). Ngoài ra, Ling và cộng sự (2022) nhận thấy rằng sự hiện diện của tảo khô như một chất bổ sung thức ăn đã cải thiện FI, FCR, chất lượng thân thịt, chỉ số tăng trưởng và tăng cường tình trạng sinh lý trong các tác động bất lợi như căng thẳng và bệnh tật.

Tương tự như vậy, Sharibi và cộng sự (2015) đã theo dõi sự cải thiện trong các chỉ số tăng trưởng của khẩu phần ăn cho tôm được bổ sung tảo khô. Tuy nhiên, MaciasSancho và cộng sự (2014) phát hiện ra rằng tôm thẻ được cho ăn khẩu phần ăn isonitrogenous thử nghiệm (~35% protein), chứa 0%, 25%, 50%, 75% và 100% vi khuẩn lam A. platensis thay thế bột cá trong 50 ngày không cho thấy sự khác biệt đáng kể (P ≥ 0,05) về hiệu suất tăng trưởng giữa các khẩu phần ăn cho tôm có tới 75% bột cá thay thế. Kết quả cho thấy có thể thay thế tới 75% bột cá bằng A. platensis mà không ảnh hưởng đến tỷ lệ sống hoặc gây ra sự suy giảm tăng trưởng. Vai trò của SP trong việc cải thiện chỉ số tăng trưởng và tăng cường hiệu quả thức ăn có thể được quy cho nhiều tình huống như sau: i) SP cung cấp nhiều loại vitamin như vitamin B12, chất chống oxy hóa, phycocytamin, khoáng chất và các axit amin thiết yếu (James và cộng sự, 2006). SP cũng giàu carotenoid và protein, hai chất dinh dưỡng cần thiết cho sự tăng trưởng và hiệu suất sinh sản của tôm (Patnaik và cộng sự, 2006). SP giàu axit béo không bão hòa đa (PUFA), đặc biệt là loại n-3 và n-6 rất quan trọng cho quá trình tổng hợp màng sinh học (Vigliano Relva và cộng sự, 2024). Loại tảo này giúp tăng cường hệ vi khuẩn đường ruột của tôm bằng cách hòa tan các thành phần thức ăn không tiêu hóa được và thúc đẩy sản xuất các enzyme hỗ trợ quá trình chuyển hóa chất béo (James và cộng sự, 2006; Sandeep và cộng sự, 2023). SP thúc đẩy tăng trưởng và hiệu quả thức ăn bằng cách thúc đẩy số lượng vi khuẩn có lợi trong đường tiêu hóa (James và cộng sự, 2006). Việc bổ sung SP có tác động tích cực đến hệ tiêu hóa bằng cách kết hợp các vi khuẩn đường ruột, kích thích sự thèm ăn, sản xuất vitamin, phân hủy các chất dinh dưỡng khó tiêu và làm giảm các tác nhân gây bệnh trong ruột (Lotfy, 2015; Thiam và cộng sự, 2015). SP cải thiện khả năng tiêu hóa và tính khả dụng của chất dinh dưỡng cho tôm bằng cách cung cấp các động lực tăng trưởng thiết yếu như axit béo, axit amin và vitamin, từ đó tăng cường hệ vi khuẩn đường ruột (Opiyo và cộng sự, 2019). Các chất bổ sung SP tăng cường phản ứng miễn dịch trong tế bào và mô, giảm căng thẳng và giúp tôm chịu được áp suất dưới nước, do đó hỗ trợ tăng trưởng (El-Araby và cộng sự, 2022). Kết quả về thành phần hóa học toàn thân của tôm cho thấy không có sự khác biệt đáng kể (P ≤ 0,05) về hàm lượng ẩm. Tuy nhiên, protein thô tăng lên ở các nhóm tôm được cho ăn SP. Các kết quả phù hợp với các phát hiện trước đây của Hossain và cộng sự (2017) và Sukri và cộng sự (2016).

Hoạt động của enzyme chống oxy hóa (SOD, CAT, GPx và MDA) được sản xuất về mặt sinh lý thông qua một số quá trình sinh hóa và tăng lên trong các điều kiện sinh lý cụ thể như stress oxy hóa, bệnh tật và phản ứng bảo vệ miễn dịch (Radhakrishnan và cộng sự, 2014). Hoạt động của các chất chống oxy hóa (SOD, CAT và GPx) tăng mạnh trong khẩu phần ăn cho cá được mở rộng với SP liên quan đến nhóm đối chứng, trong khi mức MDA giảm, điều này trái ngược với kết quả nghiên cứu trước đây của Radhakrishnan và cộng sự (2014). Điều này có thể được quy cho các kịch bản sau: i) sự hiện diện của phycobiliprotein như allophycocyanin (AL) trong khẩu phần ăn SP làm tăng hoạt động chống oxy hóa (Lu và cộng sự, 2006), ii) tác dụng tích cực của C-Phycocyanin chiết xuất từ ​​SP dường như thúc đẩy khả năng phòng vệ miễn dịch, các dấu hiệu sinh học chống oxy hóa và bảo vệ mô của L. vannamei, và iii) SP chứa các hợp chất hoạt tính sinh học giúp duy trì cân bằng oxy hóa khử, sự cân bằng giữa khả năng phòng vệ chống oxy hóa và các lực thúc đẩy oxy hóa (Aladaileh và cộng sự, 2020; Bashar và cộng sự, 2023).

Khả năng kháng lại vi khuẩn gây bệnh V. parahaemolyticus đã được cải thiện đáng kể nhờ bổ sung SP khô vào khẩu phần ăn. Trong nghiên cứu này, tỷ lệ chết thấp hơn được ghi nhận ở tỷ lệ cao các nhóm SP khô (T3 và T4. Những phát hiện hiện tại có thể là do một số yếu tố: i) SP khô vừa là chất tiền sinh học vừa là chất chống oxy hóa (Aladaileh và cộng sự, 2020; Bashar và cộng sự, 2023; Abdelkhalek và cộng sự, 2015), ii) việc đưa SP vào khẩu phần ăn của cá và động vật có vỏ giúp ngăn ngừa tình trạng loạn khuẩn đường ruột và sự xâm nhập của mầm bệnh, iii) việc bổ sung SP làm tăng đáng kể sự phát triển của lợi khuẩn trong ruột cá và động vật có vỏ (Çelekli và cộng sự, 2019), iv) nó tạo điều kiện tăng cường các hoạt động điều biến sinh học kích thích sản xuất các tế bào đáp ứng miễn dịch chống lại các mầm bệnh, v) SP được biết là có tác dụng điều chỉnh hệ thống miễn dịch của vật chủ và hoạt động như một tác nhân điều hòa miễn dịch (Takeuchi và cộng sự, 2002; Hironobu và cộng sự, 2006), và vi) Macias-Sancho và cộng sự (2014) phát hiện ra rằng việc thay thế bột cá bằng vi khuẩn lam A. platensis lên đến 75% cải thiện các thông số miễn dịch của tế bào trong suốt, tế bào máu hạt và chỉ số apoptosis. Hơn nữa, mức thay thế nhỏ hơn (25%) cũng cải thiện các thông số miễn dịch.

Nghiên cứu gần đây đã xác nhận rằng sự hiện diện của 6,0 g SP trên kg thức ăn có thể cải thiện cấu trúc bệnh lý học khi L. vannamei bị cảm nhiễm bởi V. parahaemolyticus. Những phát hiện này phù hợp với Asrami và cộng sự (2019) đã quan sát thấy các thông số tăng trưởng, enzyme tiêu hóa và cấu trúc bệnh lý học được cải thiện ở cá bảy màu (Poecilia reticulata) được cho ăn khẩu phần ăn bổ sung phycocyanin chiết xuất từ ​​SP. Ngoài ra, Kizhakkekarammal và cộng sự (2022) báo cáo rằng việc bổ sung C-Phycocyanin trong khẩu phần ăn đã cải thiện hệ vi sinh vật đường ruột, tăng trưởng, tỷ lệ sống, phản ứng miễn dịch, hồ sơ huyết học và khả năng kháng bệnh ở tôm thẻ chân trắng (L. vannamei). Các kết quả tích cực quan sát được trong nghiên cứu hiện tại có thể là do một số yếu tố: sự hiện diện của chiết xuất C-phycocyanin (CPCe) trong SP khô, giúp tăng cường cấu trúc mô ở tôm và thúc đẩy phản ứng miễn dịch và hiệu suất tăng trưởng (Sandeep và cộng sự, 2022, Afandi và cộng sự, 2023). Ngoài ra, Saputra và cộng sự (2023) giải thích rằng những thay đổi bệnh lý như hoại tử cấp tính ở gan tụy, thâm nhiễm teo hồng cầu giữa các ống tụy có u hạt dài, các dạng melanization và tỷ lệ chết ở HP xảy ra do tiếp xúc với V. parahaemolyticus ở tôm nuôi. Khả năng loại bỏ các hóa chất có hại trong thức ăn và kích thích khả năng miễn dịch của động vật của Spirulina giúp bảo vệ các tế bào mô khỏi bị tổn thương (Li và cộng sự, 2019). Cần có thêm các nghiên cứu để làm rõ các cơ chế phân tử cơ bản tạo nên những tác động tích cực của SP trong ngành tôm.

5. Kết luận

Các phát hiện chỉ ra rằng S. platensis ở mức 4–8 g/kg thức ăn có thể nâng cao hiệu suất tăng trưởng và hiệu quả sử dụng thức ăn của L. vannamei khi được sử dụng làm phụ gia thức ăn. Ngoài ra, S. platensis cũng cải thiện khả năng chống oxy hóa và cấu trúc mô học. Do những lợi ích này, tảo SP được khuyến nghị bổ sung vào khẩu phần ăn của tôm ở mức 4–8 g/kg thức ăn.

Theo Ragaa A. Ahmed, Samyah D. Jastaniah, Bothaina A. Alaidaroos, Manal E. Shafi, Ehab El-Haroun, Yasmin M. Abd El-Aziz, Ola Hasan Abd El Megeed, Mada M. AL-Qurashi, Safia M.A. Bahshwan, Mohammad Bodrul Munir, Zulhisyam Abdul Kari, Roshmon Thomas Mathew, Moaheda E.H. Eissa, El-Sayed Hemdan Eissa, Amal Elfeky

Nguồn: https://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S235251342400694X

Biên dịch: Nguyễn Thị Quyên – Tôm Giống Gia Hoá Bình Minh

TÔM GIỐNG GIA HÓA – CHÌA KHÓA THÀNH CÔNG

Xem thêm:

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

You cannot copy content of this page