Tóm tắt
Nghiên cứu này đánh giá hiệu suất của tôm sú gia hóa Penaeus monodon PL và cua bùn Scylla paramamosain được nuôi chung trong 90 ao tôm-lúa quảng canh ở Đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam từ năm 2022 đến tháng 9 năm 2023. Chỉ sử dụng thức ăn bổ sung hạn chế cho 20% số ao được nghiên cứu. Kết quả cho thấy các ao thả tôm giống gia hóa thu hoạch kích cở tôm lớn hơn đáng kể và có hiệu quả sử dụng tôm giống tốt hơn (P < 0,05) so với các ao thả tôm giống có ngày tuổi lớn hơn do tôm bố mẹ đánh bắt tự nhiên sinh ra. Hơn nữa, việc kết hợp thả tôm giống gia hóa và sử dụng hạt sinh học Phú Điền để cải tạo ao và trong suốt vụ nuôi đã cải thiện đáng kể năng suất 28% và kích thước thu hoạch cuối cùng 67% (P < 0,05). Tôm lớn hơn có giá bán tại trang trại cao hơn 54%, do đó làm tăng tổng doanh thu cho người nông dân. Nuôi chung cua bùn trong ao tôm-lúa với mật độ thấp (0,2–0,7 con/m2) rất phổ biến và có lợi nhuận đáng kể. Năng suất đạt 116–187 kg/ha/vụ với biên lợi nhuận lên tới 92,8%. Thu nhập từ cua bùn tương đương với thu nhập từ tôm. Kết quả nghiên cứu này cho thấy nên nuôi tôm sú gia hóa PL theo hệ thống quảng canh, tốt nhất là kết hợp sử dụng hạt sinh học để tăng cường thức ăn tự nhiên. Thu nhập và lợi nhuận có thể cải thiện nếu chú ý hơn đến chất lượng cua giống và cải tiến chất lượng.
1. Giới thiệu
Nuôi tôm có vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế – xã hội ở Đồng bằng sông Cửu Long (MRDV) của Việt Nam. Theo Tổng cục Thủy sản Việt Nam [1], khu vực sản xuất này đóng góp tới 70% sản lượng tôm cả nước, tương đương 650.000–700.000 tấn/năm đối với cả tôm thẻ chân trắng Penaeus vannamei và tôm sú P. monodon. P. vannamei đã là lựa chọn phổ biến kể từ khi lần đầu tiên được du nhập vào Việt Nam vào năm 2003, nhưng loài bản địa P. monodon được nhiều nông dân ở ĐBSCL ưa chuộng cho các hệ thống quảng canh nhờ khả năng sinh trưởng nhanh khi nuôi ở mật độ thấp, khả năng phục hồi và giá thị trường cao hơn. Năm 2022, Việt Nam đã sản xuất được 271.400 tấn P. monodon từ 610.000 ha, trở thành nước sản xuất P. monodon lớn nhất toàn cầu [1].
Nuôi tôm sú theo mô hình quảng canh ở Việt Nam và các nước khác thường có mật độ thả giống thấp 0,5 2,0 PL/m2, ao lớn (2–10 ha) và cho ra năng suất thấp (110–300 kg/ha/năm) [2, 3, 4]. Tuy nhiên, mô hình này phù hợp với những hộ nông dân quy mô nhỏ vì vốn đầu tư thấp, dễ quản lý và lợi nhuận cao hơn. Có nhiều mô hình nuôi tôm quảng canh khác nhau ở Việt Nam, cụ thể là chuyên tôm, nuôi tôm-rừng ngập mặn và nuôi tôm-lúa [4]. Mô hình nuôi tôm-lúa đã trở nên phổ biến hơn trong thập kỷ qua như một biện pháp thích ứng để ứng phó với tình trạng xâm nhập mặn ngày càng gia tăng ở những nơi không thể trồng lúa quanh năm [5, 6]. Nuôi tôm-lúa có thể được thực hiện theo hai mô hình, luân canh (tức là nuôi tôm He vào mùa khô và trồng lúa vào mùa mưa) hoặc nuôi đồng thời với tôm càng xanh nước ngọt Macrobrachium rosenbergii vào mùa mưa [7]. Mô hình luân canh được nông dân ở ĐBSCL áp dụng rộng rãi [8]. Việc thả tôm giống bắt đầu từ tháng 1 và thu hoạch thường vào cuối tháng 6 hoặc đầu tháng 7 và trồng lúa trong thời gian còn lại của năm khi có nước ngọt.
Đối với mô hình nuôi tôm-lúa, các mương sâu 1,0–1,2 m và rộng 3–5 m được tạo xung quanh và trên khắp ao sản xuất, thường là 2,0–3,0 ha, để cung cấp thêm không gian cho tôm nuôi phát triển hoặc ẩn náu khỏi căng thẳng nhiệt độ quá mức hoặc động vật ăn thịt [4]. Khu vực còn lại có độ sâu nước nông từ 0,3–0,6 m dùng để trồng lúa. Trong vụ tôm, ao có khả năng tiếp cận ánh sáng và chất dinh dưỡng tốt, do đó có năng suất cao, cung cấp thức ăn tự nhiên cho tôm nuôi. Cải tạo ao thường bao gồm phơi nắng, bón vôi nếu cần, lấp đầy nước ao, loại bỏ động vật ăn thịt và các loài không mong muốn, bón phân và/hoặc sử dụng chế phẩm sinh học [8, 9]. Bà con nên ương vèo ngắn từ 1–2 tuần bằng cách sử dụng màng vèo hoặc một ao vèo thường có diện tích bằng 10% diện tích ao. Tôm giống được thả vào hệ thống sau thời gian ương vèo. Tôm cũng thường được nuôi chung với cua bùn. Tôm giống do các trại giống địa phương cung cấp được thả với mật độ rất thấp (0,2–0,3 con/m2) nhưng có thể mang lại thu nhập đáng kể nhờ giá thị trường cao. Có thể cho ăn thêm tùy thuộc vào mật độ thả và tính khả dụng của thức ăn tự nhiên. Các mặt hàng có sẵn tại địa phương như lúa nảy mầm, chất thải của lò mổ, nhuyễn thể hai mảnh vỏ có giá trị thấp hoặc động vật chân bụng thường được sử dụng để làm thức ăn bổ sung. Việc thu hoạch hàng ngày bằng lú thường bắt đầu khi tôm nuôi đạt 40–50 g và sẽ kéo dài trong nhiều tuần hoặc nhiều tháng. Cua bùn được thu hoạch khi mỗi con nặng khoảng 300–350 g. Cua cái có gạch có giá cao hơn trên thị trường địa phương so với cua đực hoặc cua không có gạch có cùng kích thước [8].
Mặc dù chất lượng tôm giống được cho là chiếm 50%–60% tỷ lệ thành công của một vụ nuôi, nhưng những người nuôi tôm quảng canh thường chọn tôm giống PL giá rẻ và sẵn có tại địa phương (dữ liệu chưa công bố của Hoàng). Vì lý do này, tôm giống PL do tôm bố mẹ P. monodon đánh bắt ngoài tự nhiên được ưa chuộng hơn vì giá chỉ 20–30 VND/con so với 140–160 VND/con của tôm bố mẹ gia hóa. Việc sử dụng tôm giống PL do tôm bố mẹ P. monodon đánh bắt ngoài tự nhiên thường cho tỷ lệ sống thấp và kích cỡ thu hoạch nhỏ trên tất cả các hệ thống nuôi quảng canh ở Việt Nam (Trịnh Trung Phi, Tập đoàn Việt-Úc,..). Quan sát của chúng tôi cho thấy tôm giống P. monodon PL do tôm bố mẹ đánh bắt ngoài tự nhiên không phát triển nhiều sau khi đạt 35–40 g (dữ liệu chưa công bố của Hoàng). Do đó, ngày càng khó tìm thấy P. monodon lớn hơn 100 g trong các hệ thống nuôi quảng canh, đây là một yêu cầu quan trọng để có giá thị trường cao hơn. Vì tôm bố mẹ gia hóa được chọn lọc để tăng trưởng nhanh và tỷ lệ sống tốt hơn, nên được kỳ vọng rằng tôm giống có thể phát triển tốt hơn so với những con được tạo ra từ tôm bố mẹ được đánh bắt ngoài tự nhiên. Ở Úc, dữ liệu sản xuất từ 194 ao trong khoảng thời gian 4 năm cho thấy đàn tôm P. monodon gia hóa cho năng suất cao hơn 39% so với đàn tôm giống được tạo ra bởi đàn tôm bố mẹ đánh bắt ngoài tự nhiên với mật độ thả 40–50 PL/m2 trong điều kiện nuôi tương tự [10]. Tương tự [11] cho thấy ở mật độ thả giống 10–15 PL/m2 trong ao đất ở ĐBSCL, ấu trùng tôm sú P. monodon gia hóa mất 120 ngày để đạt trung bình 44,0 g, trong khi những ấu trùng do tôm bố mẹ đánh bắt ngoài tự nhiên chỉ đạt 25,0 g. Hơn nữa, cả kích thước thu hoạch và tốc độ tăng trưởng của ấu trùng tôm sú gia hóa đều giảm đáng kể khi mật độ thả giống cao hơn. Hiện tại chưa có thông tin về hiệu suất của ấu trùng tôm sú gia hóa P. monodon trong các hệ thống nuôi quảng canh ở mật độ thấp hơn.
Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã thu thập dữ liệu sản xuất từ 90 ao nuôi tôm-lúa được chọn ngẫu nhiên ở ĐBSCL từ cuối năm 2022 đến tháng 9 năm 2023 để so sánh hiệu suất của ấu trùng tôm sú gia hóa với ấu trùng do tôm bố mẹ đánh bắt ngoài tự nhiên tạo ra và đánh giá hiệu quả sản xuất. Ngoài ra, chúng tôi báo cáo hiệu suất của cua bùn (Scylla paramamosain) khi nuôi chung với tôm và lợi nhuận tương ứng. Những phát hiện mới của chúng tôi cung cấp thêm hiểu biết sâu sắc về việc sử dụng ấu trùng tôm gia hóa và có thể được sử dụng để tối ưu hóa hoạt động nuôi tôm quảng canh vì lợi ích của hàng nghìn nông dân quy mô nhỏ ở ĐBSCL.
2. Vật liệu và phương pháp
2.1. Vị trí và mô tả ao nuôi
90 ao nuôi quảng canh được chọn ngẫu nhiên tại bốn tỉnh của ĐBSCL, bao gồm Kiên Giang, Cà Mau, Bạc Liêu và Bến Tre. Các ao nuôi này được phân loại thành ba nhóm, cụ thể là A, B và C, theo nguồn gốc của tôm giống (có thể là tôm bố mẹ đánh bắt tự nhiên hoặc tôm bố mẹ gia hóa) và việc sử dụng hạt sinh học Phú Điền để tăng cường thức ăn tự nhiên (Bảng 1). Nhóm A sử dụng tôm giống được sản xuất từ tôm bố mẹ Penaeus monodon đánh bắt tự nhiên mua từ các trại giống địa phương. Cả Nhóm B và Nhóm C đều sử dụng tôm giống được sản xuất từ tôm bố mẹ P. monodon gia hóa (do MOANA Ninh Thuận, Việt Nam cung cấp). Hạt sinh học Phú Điền được sử dụng trong Nhóm C để cải tạo ao và trong suốt vụ nuôi để tăng cường thức ăn tự nhiên trong ao.
Bảng 1. Mô tả ao nuôi được nhóm theo nguồn gốc tôm bố mẹ và việc sử dụng hạt sinh học.
Dữ liệu là giá trị trung bình ± S.E.M, n = 30. Trong cùng một hàng, các giá trị trung bình có chữ cái khác nhau thì khác biệt đáng kể (P < 0,05). ∗ Ngoài việc bổ sung nước để bù cho sự bốc hơi và rò rỉ.
Diện tích trung bình của ao là 2,4–2,7 ha (Bảng 1). Tuổi ao thay đổi đáng kể, từ 2 đến 70 năm. Trung bình, độ tuổi giữa Nhóm B và Nhóm C (20–21 tuổi) tương tự nhau, già hơn 4–5 năm so với Nhóm A. Đối với cả ba nhóm, khoảng 1/3 bề mặt đáy ao (28,7%–34,4%) có các mương sâu để cung cấp thêm không gian cho tôm nuôi. Độ sâu của nước trong các mương này (1,2–1,3 m) và độ sâu trên mặt trảng (0,4–0,5 m) tương tự ở cả ba nhóm. Khoảng 1/3 số ao trong mỗi nhóm có ương vèo bằng ao vèo hoặc màng vèo, chiếm 5,2%–8,5% diện tích ao.
2.2. Thu thập và phân tích dữ liệu
Việc thu thập dữ liệu được tiến hành từ tháng 10 năm 2022 đến tháng 9 năm 2023 thông qua các chuyến thăm hàng tháng, giao tiếp và xem nhật ký của những người nông dân tham gia. Thời gian thả giống giữa ba nhóm đều giống nhau, chủ yếu là vào tháng 12 năm 2022–tháng 1 năm 2023 đối với vụ tôm quảng canh chính ở Đồng bằng sông Cửu Long theo khuyến nghị của Tổng cục Thủy sản Việt Nam [12]. Thông tin được thu thập bao gồm thông tin chi tiết về thông số kỹ thuật ao, cải tạo ao, thả tôm giống và cua giống, thức ăn bổ sung (nếu có), thông tin chi tiết về vụ thu hoạch, ước tính lao động, chi phí chính và thu nhập (Bảng 2). Từ những thông tin này, các thông số thứ cấp đã được tính toán và đưa vào phân tích.
Bảng 2. Dữ liệu thu thập được từ các ao được nghiên cứu.
* Chỉ được sử dụng làm tài liệu tham khảo.
Thống kê mô tả được tóm tắt cho từng nhóm ao. Khi cần so sánh, phân tích ANOVA một chiều được triển khai ở mức α = 0,05 bằng SigmaPlot 15.1 (Inpixon 2022). Các giả định quan trọng về phân phối chuẩn và tính đồng nhất đều được kiểm tra đối với dữ liệu đã thu thập trước khi phân tích [13]. Dữ liệu không đáp ứng các giả định này được phân tích bằng phân tích phương sai một chiều Kruskal–Wallis trên các bậc ở mức α = 0,05, sau đó là phương pháp Dunn cho các quy trình so sánh nhiều cặp.
3. Kết quả
3.1. Chi tiết thả giống
Việc cải tạo ao được tiến hành cho tất cả các ao trong nghiên cứu này, bắt đầu bằng việc phơi nắng trong khoảng 2 tuần. Sau đó, bón vôi (CaCO3) trên khắp bề mặt đáy ao. Tỷ lệ bón vôi (trung bình 98–174 kg/ha) thay đổi đáng kể giữa các ao trong mỗi nhóm. Sự thay đổi cao hơn được quan sát thấy ở Nhóm B (Bảng 1). Lượng rễ cây thuốc cá Derris eliptica được sử dụng để loại bỏ cá tép tạp cao hơn 1,5 lần ở Nhóm A (189 kg/ha) so với Nhóm B và C (121–130 kg/ha).
Nhóm A thả tôm giống có ngày tuổi lớn hơn so với Nhóm B và Nhóm C (P < 0,05) (Bảng 3), vì 60% nông dân trong nhóm này mua tôm giống ở các trại địa phương ương vèo trong 2–3 tuần. 40% nông dân còn lại của Nhóm A mua giống từ 9–15 ngày tuổi (trung bình 12,7 ± 0,6) và ương vèo trong 18–19 ngày. Mật độ thả giống tương tự nhau giữa các nhóm, trung bình là 2,4–3,9 con/m2. Tỷ lệ sống ước tính trong giai đoạn này là 50,5%–60,6%. Cua thường được nuôi chung với tôm ở Nhóm A (100%) và Nhóm C (90%) nhưng thấp hơn ở Nhóm B (60%). Thời gian thả cua thay đổi đáng kể giữa các ao (Hình 1). Nhiều ao ở Nhóm A được thả cua giống trước. Lượng hạt sinh học Phú Điền được sử dụng ở Nhóm C là 12,0 kg/ha để cải tạo ao và 72,6 kg/ha/vụ hoặc khoảng 17,0–18,0 kg/ha hàng tháng trong suốt vụ nuôi. Chỉ có 16,7%–23,3% ao được nghiên cứu ở cả ba nhóm được báo cáo là cho ăn thêm. Người nông dân cho rằng cần cho ăn thêm để đảm bảo đủ thức ăn cho tôm/cua trong các ao có mật độ thả dày hơn hoặc thức ăn tự nhiên hạn chế. Các mặt hàng địa phương được sử dụng làm thức ăn bổ sung bao gồm ốc sên (43,3%), thức ăn thương mại cho tôm (16,7%), nhau thai trâu (13,3%), lúa nảy mầm (10,0%), nhuyễn thể hai mảnh vỏ nhỏ (10,0%), cá tạp (3,3%) và khẩu phần ăn tự chế biến với cám gạo và ruốc tươi (3,3%). Tỷ lệ thay nước ước tính cho toàn bộ vụ mùa (ngoài nước bổ sung để bù đắp sự bốc hơi và rò rỉ) cao hơn đáng kể ở Nhóm A (89,3%) so với Nhóm C (19,1%) (P < 0,05) (Bảng 1).
Hình 1. Thời gian thả cua (ngày #) so với thời gian thả tôm (ngày số 0). Giá trị dương có nghĩa là cua được thả sau tôm. Giá trị âm có nghĩa là cua được thả trước tôm.
Bảng 3. Chi tiết về việc thả giống trên ba nhóm ao sản xuất (Nhóm A: sử dụng PL được sản xuất từ tôm bố mẹ đánh bắt tự nhiên, Nhóm B: sử dụng PL được sản xuất từ tôm bố mẹ gia hóa và Nhóm C: sử dụng PL được sản xuất từ tôm bố mẹ gia hóa và hạt sinh học Phú Điền để tăng cường thức ăn tự nhiên).
- Dữ liệu là giá trị trung bình ± S.E.M. Trong một hàng, các giá trị trung bình có chữ cái khác nhau thì khác nhau về mặt thống kê (α = 0,05).
Theo Hoàng Tùng, Nguyễn Thái Bình, Huỳnh Việt Quang
Nguồn: https://onlinelibrary.wiley.com/doi/10.1155/2024/5773446
Biên dịch: Nguyễn Thị Quyên – Tôm Giống Gia Hóa Bình Minh
TÔM GIỐNG GIA HÓA – CHÌA KHÓA THÀNH CÔNG
Xem thêm:
- Tác dụng của mỡ động vật trên cạn thay thế dầu cá trong khẩu phần ăn đối với hiệu suất tăng trưởng, khả năng chống oxy hóa và chuyển hóa lipid ở cua Scylla paramamosain
- Ảnh hưởng của axit arachidonic trong khẩu phần ăn đến hiệu suất tăng trưởng, thành phần axit béo và khả năng chống oxy hóa ở ấu trùng cua biển Scylla paramamosain
- Ảnh Hưởng Của Các Phụ Phẩm Nông Nghiệp Như Một Nguồn Carbon Trong Hệ Thống Dựa Trên Biofloc Đến Hiệu Suất Tăng Trưởng, Hoạt Tính Của Enzyme Tiêu Hóa, Mô Học Gan Tụy Và Tải Lượng Vi Khuẩn Đường Ruột Của Tôm Post Litopenaeus Vannamei