Đây là thông tin hiển thị trên website, KHÔNG dùng để quét mã QR. Vui lòng liên hệ 1900 86 68 69 nếu link QR dẫn đến trang web này.
Đây là thông tin hiển thị trên website, KHÔNG dùng để quét mã QR. Vui lòng liên hệ 1900 86 68 69 nếu link QR dẫn đến trang web này.

Tóm tắt

Mặc dù sự tương tác giữa cá và chế phẩm sinh học đã được nghiên cứu rộng rãi, nhưng sự tương tác giữa meiofauna, chế phẩm sinh học và cá vẫn chưa được khám phá. Vào tháng 9/2019 – tháng 7/2020, tác động của men vi sinh (Sanolife PRO-W) đối với sự phong phú, sinh khối và tính đa dạng của meiofauna cũng như tác động của những tác động này đối với cá rô phi sông Nile đã được nghiên cứu. Hai nghiệm thức được áp dụng trong ao đất: đối chứng (C) và xử lý bằng men vi sinh (T). Vào vụ xuân hè, người ta sử dụng lưới để chia mỗi ao thành hai khu vực có cá (O) và không có cá (I). Mẫu được thu ngẫu nhiên 2 tháng 1 lần và hàng tháng từ các ao nuôi vào mùa thu đông và xuân hè. Loài Cladocera, Rotifera, Nematoda Oligochaeta chiếm ưu thế trong ao được xử lý bằng chế phẩm sinh học. Độ phong phú, sinh khối và đa dạng của hệ động vật meiofauna không có sự khác biệt giữa các ao vào vụ thu đông. Tuy nhiên, vào mùa xuân hè, sự phong phú của hệ động vật meiofauna khác nhau ở các cặp xử lý sau: CO so với TO, CI so với TI, CI so với CO và TI so với TO. Hơn nữa, sinh khối khác nhau về CO so với TO và CI so với TI, trong khi tính đa dạng khác nhau về CI so với TI và TI so với TO. Những kết quả này cung cấp thêm thông tin về sự tương tác tích cực giữa cá và probiotic; tuy nhiên, cần có nghiên cứu bổ sung để khám phá các mối quan hệ được xác định trong những kết quả sơ bộ này.

1. Giới thiệu

Khi dân số toàn cầu ngày càng tăng, các nhà khoa học, nhà sản xuất thực phẩm và chính phủ đang tìm kiếm các giải pháp để đáp ứng nhu cầu lương thực ngày càng tăng. Đồng thời, việc khai thác nhiều loài cá và động vật có vỏ tự nhiên trong hoặc cao hơn trên mức bền vững tối đa. Một cách để giải quyết vấn đề này là sự gia tăng sản lượng nuôi trồng thủy sản. Nhiều chiến lược khác nhau, chẳng hạn như sử dụng kháng sinh và hormone, đã được sử dụng để duy trì hệ thống nuôi trồng thủy sản khỏe mạnh. Bất chấp sự thành công có hạn của các chiến lược này, các vấn đề phức tạp hơn đang nổi lên, bao gồm sự xuất hiện của các sinh vật gây bệnh kháng thuốc và sự suy giảm các sinh vật tái chế chất dinh dưỡng. Moriarty (1997) nhấn mạnh tầm quan trọng của vi sinh vật trong tất cả các hệ thống nuôi trồng thủy sản, tập trung vào tác động trực tiếp của chúng đến năng suất. Cơ sở lý luận của ông dựa trên hoạt động của vi khuẩn tảo hàng ngày và hàng đêm, kiểm soát nồng độ oxy và amoniac trong nước, cũng như sản lượng vi sinh vật sơ cấp thông qua tái chế nitơ và phốt phát. Tương tự, Sahu và cộng sự (2008) cũng giải thích lý do cho việc sử dụng chế phẩm sinh học trong ngành nuôi trồng thủy sản. Họ liệt kê một loạt lợi ích, bao gồm phân hủy sinh học carbon hữu cơ, giảm bùn, tăng sinh động vật phù du, giải phóng glucose và axit amin tự do dưới dạng thức ăn đơn giản cho các vi khuẩn có lợi và giảm amoniac và các dẫn xuất của nó, cuối cùng có thể cải thiện chất lượng nước.Việc ứng dụng Probiotic cũng có thể nâng cao sức khỏe và năng suất của sinh vật nuôi. Trên thực tế, phương pháp này được xem là mang lại lợi ích cao hơn tất cả các phương pháp khác được sử dụng (Lara-Flores, 2011); (Elsabagh và cộng sự, 2018). Hầu hết tất cả các nghiên cứu liên quan đến sinh vật nuôi cấy được xử lý bằng men vi sinh đều bỏ qua mối quan hệ sinh thái của sinh vật mục tiêu, ví dụ như meiofauna (El- Saadony và cộng sự, 2021; Irianto & Austin, 2002; Pandiyan và cộng sự, 2013). Meiofauna rất phổ biến và đa dạng, do đó được coi là rất quan trọng đối với hoạt động bình thường của tất cả các môi trường dưới nước (Boulton và cộng sự, 2002; Schratzberger & Ingels, 2018). Kích thước nhỏ, độ phong phú cao và đặc điểm năng suất khiến hệ động vật meiofauna trở thành mối liên kết quan trọng giữa bậc dinh dưỡng thấp hơn và cao hơn của các hệ sinh thái thủy sinh (Ptatscheck và cộng sự, 2020; Schmid-Araya và cộng sự, 2002; Weber & Traunspurger, 2015). Ngoài việc tái chế chất hữu cơ, meiofauna còn là nguồn thức ăn thiết yếu cho cá (Weber & Traunspurger, 2015).

Nghiên cứu này nhằm mục đích thu thập thông tin về mối quan hệ giữa probiotic – meiofauna – cá bằng cách đánh giá các phản ứng của meiofauna theo thời gian (về độ phong phú, sinh khối và tính đa dạng) đối với việc sử dụng probiotic khi nuôi cá trong ao đất, cũng như những tác động tiếp theo của những phản ứng này trên cá rô phi sông Nile nuôi (Oreochromis niloticus). Nghiên cứu của chúng tôi nhằm mục đích cung cấp cái nhìn sâu sắc về vai trò tiềm năng của meiofauna trong việc cải thiện khả năng tăng trọng và năng suất cá nuôi thông qua probiotic. Vai trò này trước đây chưa từng được xem xét; do đó, nghiên cứu của chúng tôi sẽ cung cấp thêm thông tin cho sự hiểu biết hiện tại về mối quan hệ tích cực giữa chế phẩm vi sinh và cá.

2. Vật liệu và phương pháp

2.1. Tuyên bố đạo đức

Các tác giả xác nhận rằng các nguyên tắc đạo đức của tạp chí đã được tuân thủ, như đã nêu trên trang hướng dẫn tác giả của tạp chí, đồng thời quy trình và cách tiến hành nghiên cứu đã được xem xét và phê duyệt bởi Ủy ban Chăm sóc và Sử dụng Động vật Thủy sản trong Nghiên cứu, Khoa Khoa học Thủy sản và Thủy sản, Đại học Kafrelsheikh, Ai Cập (số phê duyệt: IAACUC- KSU- 30- 2019).

2.2. Khu vực nghiên cứu

Nghiên cứu được thực hiện ở phía tây bắc đồng bằng sông Nile ở tỉnh Kafr Elsheikh, Ai Cập. Một số ao đất được sử dụng để nuôi cá rô phi sông Nile. Hai ao có tọa độ như sau được chọn làm ao đối chứng (C) (31° 21’16,33”N, 30° 39’10,61”E) và ao bổ sung Probiotic (Sanolife PRO-W) (T) (31°21’15,26”B, 30°39’10,47”Đ). Mỗi ao có chiều dài 60 m, chiều rộng 50 m và sâu khoảng 1,5 m.

2.3. Thiết kế nghiên cứu

Nghiên cứu bao gồm hai bản thiết kế được tính thời gian để xảy ra đồng thời (Hình 1). Đầu tiên là nghiên cứu theo mùa về tác dụng của chế phẩm sinh học Sanolife PRO-W trong nước (hỗn hợp của Bacillus subtilisBacillus licheniformis ở 5 × 105 cfu/g; INVE Aquaculture, Bỉ) đối với sự phong phú, sinh khối và đa dạng của meiofauna (C so với T), diễn ra từ tháng 9/2019 đến tháng 7/2020 (tức là trong tất cả các mùa), khi có cá nuôi. Vào vụ xuân hè (từ 4/2020 đến 7/2020), mỗi ao dùng lưới cỡ mắt lưới 0,25 cm để ngăn cách một khu vực (1 m2) làm khu thả cá, dùng để xác định tác dụng trực tiếp của probiotic lên meiofauna. Để ngăn cản cá xâm nhập vào khu vực này, phải đảm bảo không có khe hở giữa mép dưới của lưới và đáy ao, mép trên của lưới đặt cao hơn mặt nước 30 cm. Việc giăng lưới này nhằm tạo ra hai khu vực dành cho cá: bên ngoài lưới (O) và bên trong lưới (I) ở mỗi ao. Do đó, chúng tôi đã phân loại các khu vực ao nuôi theo CO và TO trong suốt nghiên cứu (thiết kế đầu tiên), cũng như CI và TI chỉ trong mùa xuân hè (thiết kế thứ hai). Trong thiết kế thứ hai, diện tích 1 m2 được chỉ định là khu vực không có cá để giảm thiểu tác đông kinh tế không mong muốn cho chủ ao khi giảm diện tích nuôi cá trong mỗi ao. Khu vực không có cá được sử dụng vào mùa xuân hè vì meiofauna có xu hướng phong phú hơn vào những mùa này (Abada, 2000). Vì lý do tương tự, khoảng thời gian lấy mẫu xen kẽ trong thiết kế đầu tiên dài hơn thời gian lấy mẫu trong thiết kế thứ hai.

Hình 1. Sơ đồ trình bày các bản thiét kế nghiên cứu. 1, 2 đại diện cho ao đối chứng và 3, 4 đại diện cho ao được xử lý ở hai bảng thời gian khác nhau, đại diện cho khu vực không có cá I

Sanolife PRO-W được bổ sung vào ao đã xử lý với tỷ lệ 30 g mỗi ao (50 g/feddan) 2 tuần/lần theo hướng dẫn của nhà sản xuất.

2.4. Mẫu và chiết xuất Meiofauna

Ba mẫu trầm tích lặp lại được thu thập ngẫu nhiên từ mỗi ao và khu vực (theo hai thiết kế đã đề cập trước đó) bằng cách sử dụng lõi kim loại (dài 10 cm và đường kính 3,6 cm). Các mẫu được đặt trong túi nhựa, cố định và nhuộm màu lần lượt bằng dung dịch đệm formalin 10% và Rose Bengal 0,01%; sau đó, chúng được chuyển đến phòng thí nghiệm để xử lý tiếp. Meiofauna được chiết xuất bằng kỹ thuật chiết tuyển nổi được mô tả bởi Somerfield và cộng sự (2005).

2.5. Cá rô phi sông Nile: Thích nghi, thả giống và cho ăn

Cá rô phi sông Nile đơn tính được cho thích nghi trong điều kiện trang trại trong hai tuần. Cá (trọng lượng trung bình: 20 ± 0,725 g; n = 12.000) được thả ngẫu nhiên vào các ao được mô tả trước đó. Chúng được cho ăn khẩu phần ăn cá rô phi thương mại (300 g/kg protein thô và 12,6 MJ/kg năng lượng tiêu hóa) do Nhà máy thức ăn chăn nuôi ALEKHWA® (Kafrelsheikh, Ai Cập) sản xuất từ tháng 9 – 10 năm 2019 và từ tháng 4 – 7 năm 2020 với tỷ lệ cho ăn từ 4% đến 2% trọng lượng cơ thể tùy theo trọng lượng cá.

2.6. Ước tính sinh khối

Phân tích sinh trắc học Meiofauna (chiều dài và chiều rộng) được đo (cm) bằng kính hiển vi giải phẫu hai mắt được kết nối với máy tính có cài đặt phần mềm phân tích hình ảnh Motic 3.0. Giá trị sinh khối (trọng lượng khô) được tính theo phương pháp của (Ramsay và cộng sự, 1997). Sinh khối taxon trung bình được ước tính cho 11 taxon đại diện bởi Nematoda, Rotifera, Oligochaeta, ve, Copepoda, Cladocera, Collembola, Chironomidae, ấu trùng Dipteran, Dipteran Gastrotricha. Các đơn vị phân loại khác không được xem xét trong ước tính sinh khối vì chúng là giai đoạn ấu trùng của các đơn vị phân loại nói trên hoặc chúng không được tìm thấy đủ số lượng để ước tính hợp lệ.

2.7. Lấy mẫu phi sinh học

Các thông số sinh thái được biểu thị bằng nhiệt độ (°C), khả năng oxy hóa-khử (mv), pH, oxy hòa tan (% và mg/L), độ dẫn điện (μs/cm), tổng lượng chất hòa tan (mg/L) và độ mặn (psu) được đo tại hiện trường bằng Máy dò chất lượng nước đa thông số Aquaprobe® AP-700. 2 bộ ba mẫu trầm tích tái tạo được thu thập trên mỗi khu vực để đánh giá kích thước hạt trung bình của trầm tích và xác định chất hữu cơ trong phòng thí nghiệm. Sử dụng sàng rây ướt để xác định kích thước hạt trung bình theo mô tả của Buchanan (1984). Hàm lượng chất hữu cơ được xác định theo phương pháp của Ben-Dor và Banin (1989).

2.8. Hiệu suất tăng trưởng của cá và hiệu quả sử dụng thức ăn

Để đánh giá hiệu suất tăng trưởng của cá, cá được thu hoạch vào cuối giai đoạn nghiên cứu và được gây mê bằng dầu đinh hương (Merck, Đức) với tốc độ 50 µL/L nước. Cá được cân riêng lẻ để xác định trọng lượng cuối cùng (trọng lượng ban đầu được đo khi bắt đầu thí nghiệm). Tổng chiều dài của từng cá thể được xác định bằng bảng đo. Các công thức sau đây được sử dụng để tính toán hiệu suất tăng trưởng và sử dụng thức ăn:

Tăng trọng = trọng lượng cơ thể cuối cùng (g) – trọng lượng cơ thể ban đầu (g),

Tốc độ tăng trưởng cụ thể (%/ngày) = 100 × (ln trọng lượng cơ thể cuối cùng − ln trọng lượng cơ thể ban đầu)/t,

trong đó t là thời gian nghiên cứu tính bằng ngày,

Tỷ lệ chuyển đổi thức ăn = lượng ăn vào (g)/tăng trọng (g),

Hệ số điều kiện = 100 × (trọng lượng cơ thể cuối cùng/chiều dài cuối cùng3)

2.9. Phân tích thống kê

Các yếu tố môi trường, cũng như sự phong phú, sinh khối và tính đa dạng của meiofauna, được phân tích bằng PRIMER 6 và PERMANOVA+ (Anderson và cộng sự, 2008). Dữ liệu phi sinh học được chuyển đổi log+1- và chuẩn hóa để tính toán ma trận tương tự. Dữ liệu sinh học được lấy căn bậc hai và biến đổi log+1- tương ứng cho độ phong phú và sinh khối để tính toán ma trận tương đồng của chúng. Các ma trận tương tự được sử dụng để vẽ đồ thị tỷ lệ đa chiều không theo hệ mét (nMDS), thực hiện các thử nghiệm PERMANOVA (chính và theo cặp) và các thử nghiệm CAP (phân tích chính tắc trên tọa độ chính) (được sử dụng để kiểm tra sự khác biệt giữa các địa điểm, ngày lấy mẫu và khu vực ao) và trực quan hóa các hành động tương tác, không thể hiện rõ từ nMDS hoặc sự sắp xếp tọa độ chính. Mô hình tuyến tính dựa trên khoảng cách được sử dụng để ước tính các biến số môi trường liên quan đến dữ liệu sinh vật. Chỉ số đa dạng của Shannon được tính toán bằng PRIMER 6 & PERMANOVA+.

Dữ liệu về hiệu suất tăng trưởng của cá và hiệu quả sử dụng thức ăn được đánh giá bằng cách sử dụng Graph Pad Prism 6 v6.0 (San Diego, CA, USA) để đánh giá sự phân bố bình thường thông qua phân tích dư lượng. Những dữ liệu này được phân tích phụ bằng cách sử dụng phân tích Student’s t-test. Dữ liệu được trình bày dưới dạng phương tiện ± lỗi tiêu chuẩn. Ý nghĩa thống kê được đặt ở mức xác suất 5%.

3. Kết quả

3.1. Biến số môi trường

Các biến số môi trường của địa điểm nghiên cứu và diện tích ao được trình bày trong Bảng 1. Các biến môi trường có giá trị khác nhau đáng kể giữa các địa điểm, ngày lấy mẫu và sự tương tác của chúng, nhưng không có sự khác biệt đáng kể giữa các diện tích ao nuôi theo phân tích PERMANOVA (Bảng 2; Hình 2).

Bảng 1. Các biến số môi trường tại địa điểm, khu vực ao và ngày lấy mẫu

O= diện tích ao O (có cá), I= diện tích ao I (không có cá), ORP, khả năng oxy hóa-khử; DO%, phần trăm oxy hòa tan; DO mg/l, nồng độ oxy/lít; EC, độ dẫn điện; và TDS, tổng chất rắn hòa tan

Bảng 2. Thử nghiệm chính PERMANOVA về các yếu tố môi trường giữa các địa điểm, khu vực ao và ngày lấy mẫu cũng như sự tương tác của chúng với giá trị P(perm) của chúng

*Biểu thị sự khác biệt có ý nghĩa ở mức α = 0,05

Hình 2. Tỷ lệ đa chiều phi số liệu (nMDS) của biến đổi môi trường log+1- của hai ao và khu vực của chúng (C=đối chứng, T=được xử lý, O= diện tích ao O và I= diện tích ao I); (9= Tháng 9 năm 2019, 12= Tháng 12 năm 2019, 3= Tháng 3 năm 2020, 4=Tháng 4 năm 2020, 6= Tháng 6 năm 2020 và 7= Tháng 7 năm 2020)

Hàm lượng carbon hữu cơ cao vào tháng 9 và tháng 12 năm 2019, cũng như nồng độ oxy vào tháng 9 năm 2019. Hơn nữa, nhiệt độ cao vào tháng 9 năm 2019 và tháng 6 năm 2020 và đạt đỉnh điểm vào tháng 7 năm 2020. Trong ao được xử lý bằng men vi sinh, tổng lượng chất hòa tan và độ dẫn điện nhìn chung thấp so với các ao đối chứng. Ngoài ra, nồng độ amoniac đạt đỉnh điểm vào tháng 7 năm 2020 ở ao đối chứng.

3.2. Tổng quan sự phong phú của hệ sinh vật meiofauna

Loài Ephippia có lượng CO và TO trung bình tổng thể cao nhất, lần lượt là 24.293 và 98.154 cá thể/m2 (tăng khoảng 4 lần trong ao được xử lý bằng chế phẩm sinh học). Về CO, độ phong phú trung bình thấp nhất là ở Collembola với 45 cá thể/m2; đây cũng là mức độ phong phú trung bình thấp nhất đối với ấu trùng Collembola, Chironomidae, Diptera Gastrotricha ở TO. Ở CI và TI, độ phong phú trung bình cao nhất là Rotifera với mật độ lần lượt là 6.004 và 57.091 cá thể/m2 (tăng khoảng 10 lần trong ao được xử lý bằng chế phẩm sinh học). Ngược lại, mật độ trung bình tối thiểu ở CI là 109 cá thể/m2 đối với ấu trùng Copepoda, mites Nematoda, với cùng mức độ phong phú trung bình tối thiểu của Collembolamites được tìm thấy ở TI. Độ phong phú trung bình của Nematoda ở TI cao gấp 21 lần so với CI và 1,5 lần ở TO so với CO. Tương tự, độ phong phú của Oligochaeta ở TO cao gấp 11 lần so với CO. Copepoda trưởng thành không được tìm thấy ở TI hoặc CI (Bảng 3).

3.3. Sự phong phú của meiofauna thay đổi theo thời gian và không gian

Những thay đổi về độ phong phú của meiofauna tương đối nhất quán. Độ phong phú trung bình tối đa được ghi nhận vào tháng 9 năm 2019 đối với CO và TO lần lượt là 83.507 và 477.137 cá thể/m2Rotiferaephippia. Nematoda có mức độ phong phú trung bình cao vào tháng 9 năm 2019 và vào tháng 4, tháng 6 và tháng 7 năm 2020 ở TO so với mức độ phong phú ở CO. Vào tháng 9 năm 2019 và vào tháng 3, tháng 4 và tháng 6 năm 2020, mức độ phong phú trung bình của Oligochaeta trong TO lớn hơn mức được phát hiện ở CO trong cùng thời kỳ (Bảng 3). Ở cả hai địa điểm, mức độ phong phú thấp nhất được ghi nhận vào tháng 12 năm 2019 và ngày 6 tháng 3, 2020: trong CO, CollembolaOligochaeta được phát hiện196 cá thể/m2 vào tháng 12 năm 2019 và Rotifera vào tháng 3 năm 2020; ở TO, CopepodaOligochaeta cũng được phát hiện 196 cá thể/m2 vào tháng 12 năm 2019 cũng như mitesNematoda vào tháng 3 năm 2020.

Tương tự, mô hình phong phú trong CI và TI tương đối nhất quán. Độ phong phú tối đa được ghi nhận vào tháng 7 năm 2020 là 7.532 và 138.851 cá thể/m2 đối với Rotifera lần lượt ở CI và TI. Mức độ phong phú trung bình của Nematoda tăng từ tháng 4 đến tháng 7 năm 2020 ở TI so với mức độ phong phú của Nematoda trong CI (Bảng 3). Trong khi đó, mật độ thấp nhất được ghi nhận vào tháng 4 năm 2020 (327 cá thể/m2) đối với ấu trùng Copepoda, ve và Nematoda ở CI và mites và Collembola ở TI.

O= diện tích ao O (có cá), I= diện tích ao I (không có cá)

Phân tích PERMANOVA của dữ liệu độ phong phú được chuyển đổi căn bậc hai từ toàn bộ thời gian nghiên cứu cho thấy không có sự khác biệt đáng kể giữa các địa điểm. Tuy nhiên, mức độ phong phú thay đổi đáng kể theo các ngày lấy mẫu (mùa) và giữa các khu vực ao (Bảng 4; Hình 3a– c tương ứng cho các địa điểm, ngày tháng và diện tích ao).

Khi chia các khoảng thời gian lấy mẫu thành thu đông (tháng 9, tháng 12 và tháng 3) và xuân hè (tháng 4, tháng 6 và tháng 7), các thử nghiệm PERMANOVA cho kết quả hơi khác nhau. Mức độ phong phú của CO và TO không khác nhau về mặt không gian trong mùa thu đông [P(perm) = 0,677]; tuy nhiên, chúng khác nhau về mặt thời gian [P(perm) = 0,008] (Bảng 4; Hình 3d,e tương ứng cho các địa điểm và ngày tháng). Ngược lại, có sự khác biệt đáng kể về không gian [P(perm) = 0,0481] và thời gian [P(perm) = 0,0235] giữa mức độ phong phú của các địa điểm CO và TO trong mùa xuân hè (Bảng 4; Hình 3f, g tương ứng với các địa điểm và ngày tháng).

Phân tích PERMANOVA của quần thể động vật thủy sinh có nhiều ở CI và TI vào mùa xuân hè cho thấy sự khác biệt đáng kể về không gian [P(perm) = 0,029] nhưng không có sự khác biệt về thời gian [P(perm) = 0,204] (Bảng 4; Hình 3h,i tương ứng với các địa điểm và ngày tương ứng).

Sự phong phú ở các khu vực O và I trong các địa điểm C và T vào mùa xuân hè khác nhau đáng kể về mặt thời gian và không gian [địa điểm C: P (perm) = 0,003 và 0,007, (Bảng 4, Hình 3j, k cho ngày tháng và diện tích ao , tương ứng); địa điểm T: P(perm) = 0,023 và 0,019 tương ứng (Bảng 4; Hình 3l,m tương ứng cho ngày và diện tích ao)].

Bảng 4. Thử nghiệm chính của PERMANOVA về dữ liệu phong phú giữa các địa điểm

(C= đối chứng, T=được xử lý), diện tích ao (O= diện tích ao O (có cá), I= diện tích ao I (không có cá) và ngày lấy mẫu cũng như tương tác của chúng với giá trị P perm của chúng đối với tất cả các kết hợp so sánh có thể có. Pperm= giá trị p sử dụng hoán vị 999. * Biểu thị sự khác biệt đáng kể ở mức α = 0,05

Hình 3. Phân tích chính tắc về tọa độ chính (CAP) của sự phong phú của meiofauna [tất cả các kết hợp so sánh có thể có (trong ngoặc)]. (a) COITOI 9123467 (địa điểm); (b) COITOI 9123467 (Ngày lấy mẫu); (c) COITOI 9123467 (khu vực ao nuôi); (d) COTO 9123 (Địa điểm); (e) COTO 9123 (Ngày lấy mẫu); (f) COTO 467 (Địa điểm); (g) COTO 467 (Ngày lấy mẫu); (h) CITI 467 (Địa điểm); (i) CITI 467 (Ngày lấy mẫu); (j) COCI 467 (Ngày lấy mẫu); (k) COCI 467 (khu vực ao nuôi); (l) TOTI 467 (Ngày lấy mẫu); (m) TOTI 467 (khu vực ao); (C=đối chứng, T=xử lý, O= diện tích ao O và I= diện tích ao I); (9= tháng 9 năm 2019, 12= tháng 12 năm 2019, 3= tháng 3 năm 2020, 4=tháng 4 năm 2020, 6= tháng 6 năm 2020 và 7= tháng 7 năm 2020

Các biến số môi trường không có tác động mạnh đến sự phong phú của quần thể sinh vật trong đó lời giải thích của chúng về sự biến đổi của quần xã là 4,4%– 26,2% (Bảng 4).

Theo Ahmed Elsayed Ahmed Abada, Ashgan Sabry Kamel ElWakeil, Radi Mohamed, Alyaa Elsaid Abdelaziz Fadl

Nguồn:https://www.researchgate.net/publication/358610981_Effects_of_probiotic_Sanolife_PROW_application_on_benthic_meiofauna_and_Nile_tilapia_growth_performance_in_earthen_ponds

Biên dịch: Nguyễn Thị Quyên – Tôm Giống Gia Hóa Bình Minh

TÔM GIỐNG GIA HÓA – CHÌA KHÓA THÀNH CÔNG

Xem thêm:

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

You cannot copy content of this page