Đây là thông tin hiển thị trên website, KHÔNG dùng để quét mã QR. Vui lòng liên hệ 1900 86 68 69 nếu link QR dẫn đến trang web này.
Đây là thông tin hiển thị trên website, KHÔNG dùng để quét mã QR. Vui lòng liên hệ 1900 86 68 69 nếu link QR dẫn đến trang web này.

Bổ sung khẩu phần ăn bằng Aurantiochytrium sp. làm tăng sức đề kháng của tôm P. vannamei bị nhiễm virus hội chứng đốm trắng

Nghiên cứu này đánh giá hiệu quả của việc đưa Aurantiochytrium sp. vào khẩu phần ăn tôm thẻ chân trắng P. vannamei được nuôi trong hệ thống nước trong và ở nhiệt độ dưới mức tối ưu là 22. Kết quả tỷ lệ chết tích lũy cho thấy tôm được cho ăn khẩu phần ăn có chứa 3 và 4% Aurantiochytrium sp. có tỷ lệ sống cao hơn các nghiệm thức khác khi bị cảm nhiễm với WSSV. Ảnh của Aurantiochytrium limacinum của NEON ja, qua Wikimedia Commons.

Nhiệt độ là yếu tố môi trường quan trọng trong nuôi tôm thẻ chân trắng (Penaeus vannamei). Tôm thẻ chân trắng là sinh vật biến nhiệt, nên khó điều chỉnh nhiệt độ cơ thể và tiêu tốn nhiều năng lượng. Phạm vi nhiệt độ lý tưởng cho tôm thẻ chân trắng là 27-30°C và các giá trị nằm ngoài phạm vi tối ưu này có thể làm tăng khả năng mắc bệnh, bao gồm cả Virus hội chứng đốm trắng (WSSV).

Tôm thẻ chân trắng không thể tự tổng hợp LC-PUFA, nên cần bổ sung qua thức ăn. LC-PUFA có vai trò quan trọng trong hỗ trợ hệ miễn dịch, giảm viêm, tăng sức đề kháng với bệnh tật. PUFA được sản xuất bởi các vi sinh vật biển, tảo vĩ mô và vi tảo.

Sinh vật nguyên sinh Aurantiochytrium sp. là sinh vật nhân chuẩn có khả năng sản xuất axit béo không bão hòa đa chuỗi dài (LC-PUFA) cao, đặc biệt là axit docosahexaenoic (DHA). DHA đóng vai trò quan trọng trong hệ miễn dịch và sức khỏe của tôm. Việc đưa Aurantiochytrium sp. làm phụ gia thức ăn trong khẩu phần ăn thực tế cho tôm thẻ chân trắng có thể phù hợp với động vật trong thời kỳ bị stress lạnh, giúp đối phó với nhiệt độ dưới mức tối ưu và bảo vệ chống lại bệnh tật.

Bài viết này – được tóm tắt từ ấn phẩm gốc (Hoffling, FB và cộng sự 2024. Aurantiochytrium sp. làm phụ gia thức ăn cho tôm thẻ chân trắng được nuôi trong điều kiện nhiệt độ thấp và bị cảm nhiễm bởi WSSV liên quan đến stress nhiệt. Cá 2024, 9(3), 108) – trình bày kết quả của một nghiên cứu đánh giá hiệu suất của tôm P. vannamei được cho ăn 5 khẩu phần ăn với 0, 1, 2, 3 và 4% lượng Aurantiochytrium sp. trong hệ thống nước sạch ở nhiệt độ dưới mức tối ưu (22 ℃) về các thông số kỹ thuật chăn nuôi, miễn dịch và vi sinh cũng như cảm nhiễm WSSV.

Thiết lập nghiên cứu

Nghiên cứu nuôi này được thực hiện tại Phòng thí nghiệm Camarões Marinhos, Đại học Liên bang Santa Catarina ở Florianópolis, Brazil. Thí nghiệm đã bổ sung Aurantiochytrium sp. trong nuôi tôm P. vannamei trong hệ thống nước trong và ở nhiệt độ dưới mức tối ưu là 22 ℃. Cảm nhiễm WSSV được thực hiện tại Instituto Federal Catarinense ở Araquari, Brazil. Tôm post (PL10) được mua từ công ty Aquatec (bang Rio Grande do Norte, Brazil) và được nuôi trong hệ thống biofloc nhà kính cho đến khi đạt trọng lượng trung bình 3,8 ± 0,02 g.

Thử nghiệm tăng trưởng kéo dài 9 tuần sau đó được tiến hành trong hệ thống nước sạch trong nhà với tỷ lệ thay nước hàng ngày là 80–100%. 600 con tôm được chuyển sang hệ thống nước sạch ở nhiệt độ 22 ℃ và thả nuôi với mật độ 100 con/m3 trong bể 400 lít.

Thí nghiệm bao gồm việc thử nghiệm 5 khẩu phần ăn isonitrogenous và isoenergetic được xây dựng theo nhu cầu dinh dưỡng của P. vannamei. Khẩu phần đối chứng chứa lecithin đậu nành và dầu cá để đáp ứng nhu cầu phospholipid của tôm. 4 khẩu phần còn lại bổ sung Aurantiochytrium sp. với tỷ lệ 1%, 2%, 3% và 4% và nghiệm thức được thực hiện ba lần. Nhiệt độ phòng được kiểm soát bằng điều hòa không khí và nước được làm mát bằng máy làm lạnh trung tâm (22 ℃) để thay thế nước tĩnh.

Để biết thông tin chi tiết về thiết kế thí nghiệm, chăn nuôi, thu thập và phân tích dữ liệu, hãy tham khảo ấn phẩm gốc.

Kết quả và thảo luận

Tôm thẻ chân trắng (P. vannamei) có khả năng thích ứng tốt với nhiệt độ nước 22°C, với tỷ lệ sống trên 96,7% ở tất cả các khẩu phần ăn. Tỷ lệ sống cao này cho thấy tầm quan trọng của việc giữ nhiệt độ ổn định, tránh biến động nhanh chóng, ngay cả khi ở mức dưới mức lý tưởng. Không có sự khác biệt đáng kể về hiệu suất tăng trưởng giữa các khẩu phần ăn có bổ sung Aurantiochytrium sp. và khẩu phần đối chứng.

Tôm có thể điều chỉnh trao đổi chất để thích nghi với sự thay đổi nhiệt độ. Phospholipid trong thức ăn có thể giúp tôm chống lại stress lạnh. Khẩu phần ăn có bổ sung Aurantiochytrium sp. giúp tăng hàm lượng DHA trong tôm lên 0,48-1,11%, cao hơn so với khẩu phần đối chứng (0,25%), chứng thực kết quả của các nghiên cứu khác trong đó việc đưa lecithin đậu nành vào tất cả các khẩu phần ăn có thể làm giảm nhu cầu DHA của tôm.

Hình 1: Tỷ lệ chết tích lũy của P. vannamei nuôi trong nước trong và cho ăn khẩu phần chứa 0 (đối chứng), 1, 2, 3 và 4% Aurantiochytrium sp. sau 9 tuần, sau khi nhiễm WSSV liên quan đến stress nhiệt. Tất cả các nghiệm thức bằng khẩu phần ăn đều khác biệt đáng kể so với đối chứng âm (giá trị p < 0,01). ** T0 × T4 (giá trị p = 0,0259). Tiêu đề phụ: T0 (đối chứng), T1 (1% Aurantiochytrium sp.), T2 (2% Aurantiochytrium sp.), T3 (3% Aurantiochytrium sp.) và T4 (4% Aurantiochytrium sp.). Chuyển thể từ bản gốc.

Sự gia tăng tỷ lệ n-3:n-6 trong khẩu phần ăn trong các axit béo và việc bổ sung thành phần giàu DHA và PUFA vượt quá nhu cầu không ảnh hưởng đến tỷ lệ sống và tăng trưởng của tôm. Ngược lại, tôm có khả năng thích nghi tốt với nhiệt độ thấp trong một hệ thống không có biến động nhiệt độ và không thấy sự khác biệt về hiệu suất tăng trưởng ngay cả khi tỷ lệ n-3:n-6 tăng lên khi tăng liều phụ gia thức ăn.

Hành vi kiếm ăn của tôm nuôi thường bị ảnh hưởng bởi nhiệt độ nước thấp, lượng thức ăn ăn vào giảm và tôm bất động. Tuy nhiên, tôm có hành vi kiếm ăn và tiêu thụ thức ăn tương đối tích cực ở nhiệt độ 22°C. Nhiệt độ thấp ảnh hưởng đến tốc độ cho ăn của tôm, khiến nó kém hiệu quả hơn so với ở nhiệt độ lý tưởng.

Không có sự khác biệt đáng kể về số lượng Vibrio trong môi trường biển và đường ruột tôm. Việc thay nước thường xuyên (80-100%) giúp kiểm soát sự phát triển của Vibrio. Những vi khuẩn này có thể phát triển trong phạm vi nhiệt độ rộng (0,5 đến 48 ℃), nhưng tốc độ tăng trưởng cao hơn ở nhiệt độ cao, chẳng hạn như đối với V. parahaemolyticusV. alginolyticus ở 37 đến 42℃. Tổng số vi khuẩn quan sát được phù hợp với kết quả được tìm thấy trong các nghiên cứu trước đây.

Về thử nghiệm cảm nhiễm, ở nhiệt độ thấp 22℃, việc bổ sung Aurantiochytrium sp. ở nồng độ 3 và 4% làm tăng sức đề kháng của tôm đối với nhiễm virus, có ý nghĩa thống kê khi so sánh với nhóm đối chứng (0%). Tuy nhiên, khi nhiệt độ tăng lên 28℃ trong quá trình cảm nhiễm, chỉ nhóm đã bổ sung 4% Aurantiochytrium sp. có khả năng sống cao hơn và do đó có khả năng kháng WSSV cao hơn.

Aurantiochytrium sp. chứa beta-1,3-glycans, một loại polysaccharide có khả năng tăng cường sức khỏe động vật. Beta-1,3-glycans có hoạt động chống oxy hóa, chống viêm và kích thích miễn dịch. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh rằng beta-1,3-glycans giúp tôm thẻ chân trắng chống lại virus WSSV hiệu quả hơn.

Sự thay đổi thành phần axit béo của phospholipid đặc biệt quan trọng trong quá trình thích ứng với sự thay đổi nhiệt độ. Nói chung, có sự gia tăng tỷ lệ PUFA và axit béo không bão hòa đơn (MUFA) và giảm axit béo bão hòa (SFA) trong màng. Sự gia tăng PUFA cho phép màng tế bào tiếp tục hoạt động bình thường. Về vấn đề này, thành phần phong phú của các hợp chất hoạt tính sinh học của Aurantiochytrium sp. có thể liên quan đến những tác động có lợi được quan sát thấy trong nghiên cứu này, đặc biệt là sự gia tăng sức đề kháng của tôm chống lại nhiễm virus ở nhiệt độ thấp và cụ thể hơn là mức bổ sung 3 và 4%.

Tuy nhiên, khi tôm bị stress nhiệt bằng cách tăng nhiệt độ, tôm được bổ sung 3% Aurantiochytrium sp. cho thấy tỷ lệ chết cao, tương tự với đối chứng (0%). Khả năng chịu dao động nhiệt thấp của tôm khi xử lý bằng 3% vẫn chưa được hiểu rõ, cần phải nghiên cứu thêm.

Kết luận

Kết quả nghiên cứu này cho thấy rằng việc bổ sung Aurantiochytrium sp. không ảnh hưởng đến hiệu suất tăng trưởng của tôm thẻ P. vannamei được nuôi ở nhiệt độ dưới mức tối ưu. Tuy nhiên, liều 4% dẫn đến tỷ lệ tôm chết thấp hơn sau khi bị nhiễm virus WSSV liên quan đến stress nhiệt độ.

Theo Delano Días Schleder

Nguồn: https://www.globalseafood.org/advocate/evaluating-the-effect-of-protists-in-diets-for-pacific-white-shrimp/

Biên dịch: Nguyễn Thị Quyên – Tôm Giống Gia Hóa Bình Minh

TÔM GIỐNG GIA HÓA – CHÌA KHÓA THÀNH CÔNG

Xem thêm:

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

You cannot copy content of this page