Tôm post có chất lượng tốt và kích thước đồng đều

Chất lượng tôm post là điều quan trọng, nhưng quản lý trang trại tốt cũng là yếu tố góp phần không kém đến sự thành công trong nuôi tôm. Điều này đã được thể hiện rõ ràng trong một phân tích dữ liệu chất lượng ao nuôi và chất lượng tôm post của 9.500 ao ở Indonesia, trong đó ước tính tôm post chỉ ảnh hưởng 25% đến sản lượng ao nuôi.

Chỉ những ao có cùng tôm bố mẹ và được thu hoạch từ một bể ương được phân tích. Tất cả các ao đều là ao hình chữ nhật lót bạt HDPE có diện tích 2.500- 5.000m², mật độ thả 100PL/m² với hệ thống sục khí cánh quạt 20-24HP/ha.

Các thông số thu hoạch trong ao tương quan với các thông số chất lượng tôm post. Các thông số ao bao gồm mức sản lượng (tấn/ha), tăng trọng trung bình hàng ngày (g/ngày), tỷ lệ sống và hệ số chuyển đổi thức ăn. Các thông số về chất lượng tôm post bao gồm tỷ lệ sống trong bể, chiều dài cuống mắt, tốc độ tăng trưởng, hệ số biến thiên (CV) của chiều dài, vi khuẩn phát quang, tổng số lượng Vibrio, hoại tử, tỷ lệ cơ ruột, tế bào sắc tố và kiểm tra mức độ căng thẳng ở cả trại giống và ao nuôi. Tôm bố mẹ và tất cả tôm post (PL3 và PL8) trong nghiên cứu này đã được xét nghiệm PCR để phát hiện virus gây hoại tử cơ quan tạo máu và cơ quan lập biểu mô (IHHNV), virus gây hội chứng Taura (TSV) và virus gây hội chứng đốm trắng (WSSV). Tất cả tôm post đều âm tính với virus.

Chiều dài cuống mắt và tốc độ tăng trưởng của tôm được điều chỉnh theo các thông số của PL10 vì PL9-12 đã được thu hoạch và thả vào ao nuôi. Tăng trưởng theo tốc độ tăng trưởng trung bình hàng ngày (ADG) trong trại giống được tính bằng chiều dài cuống mắt chia cho tổng thời gian.

Số liệu sinh khối thu hoạch được điều chỉnh thành 100 ngày trong ao diện tích 1ha vì các ao được thu hoạch từ 85-115 ngày theo yêu cầu.

Tỷ lệ sống

Mặc dù tỷ lệ sống quan trọng đối với hiệu suất sản xuất, nhưng không thể phân tích thống kê hoặc dự đoán thống kê một cách chính xác và đáng tin cậy. Số lượng thực tế được thả và số lượng thực tế được thu hoạch có quá nhiều biến động để có thể phân tích một cách đáng tin cậy.

Tỷ lệ sống, chiều dài cuống mắt PL10, ADG PL10, CV của chiều dài cuống mắt PL10 và vi khuẩn phát quang trong bể ương đều ảnh hưởng đến hiệu suất ao nhưng không ảnh hưởng đến tỷ lệ sống của ao. Nếu đạt được các tiêu chuẩn trại giống này thì các tiêu chí khác không ảnh hưởng. Tất cả các thông số khác như kiểm tra căng thẳng, hoại tử, tỷ lệ cơ ruột, tế bào sắc tố, v.v., không có mối tương quan với hiệu suất ao trong hệ thống nuôi tích hợp được khảo sát.

Tiêu chuẩn chất lượng tôm post “tối thiểu” tại bể ương giống thu hoạch được xác định như sau:

Đây là những yêu cầu tối thiểu cho tất cả các thông số cùng lúc. Các bể ương có tỷ lệ sống 65%, PL10 là 12 mm, ADG PL10 là 0,6 mm và CV > 0,6 thường được quan sát và cho kết quả tốt khi nuôi trong ao. Các tiêu chuẩn này sẽ được cải thiện hơn nữa khi kiến thức quản lý trại giống tăng lên cùng với sự cải thiện di truyền của tôm bố mẹ.

Ảnh hưởng của tôm post đối với ao nuôi tương đối nhỏ, ước tính khoảng 25%, điều này cho thấy rằng sự thành công phụ thuộc vào quản lý trang trại. Các nội dung sau thảo luận về các bước mà nông dân có thể thực hiện để tối ưu hóa sự thành công cho ao nuôi tôm của họ.

Lựa chọn tôm post

Nông dân nên chọn một trại giống đáng tin cậy, cung cấp dịch vụ tốt, và thông tin chính xác. Không nên mua tôm giống rẻ nhất vì chúng thường không đạt tiêu chuẩn về chất lượng và điều này rất có thể dẫn đến việc nuôi tôm không thành công. Nông dân nên có đội ngũ riêng để lựa chọn tôm post từ trại giống tại thời điểm đóng gói và vận chuyển. Hầu hết các trại sản xuất giống tốt sẽ bổ sung thêm 10% tôm post để khấu hao các vấn đề về vận chuyển.

Bảng 1. Danh sách các tiêu chuẩn về chất lượng tôm post được chấp nhận ở cấp độ trại giống

Kiểm tra căng thẳng khi đến nơi

Đối với mỗi lô tôm post vào trang trại, điều quan trọng là phải tiến hành các bài kiểm tra căng thẳng. Giao thức được đề xuất như sau:

  • Đổ 2L nước ngọt vào 3 thùng chứa có thể tích 5L. Nước đóng chai được ưa thích hơn vì nó sẽ luôn có cùng thành phần và độ nhất quán.
  • Trực tiếp thêm 100PL vào mỗi thùng chứa.
  • Sau một giờ, đếm số lượng tôm chết trong mỗi thùng. Tỷ lệ sống trong quá trình vận chuyển là trung bình của ba thùng chứa
  • Tỷ lệ sống của bài kiểm tra căng thẳng được chấp nhận là >95%.

Túi chứa tôm post được thuần trong nước ao, Philippines. Túi nên được để trong nước ao 30 phút trước khi thả tôm vào bể thuần.

Đếm tôm post khi đến nơi

Cần đếm số lượng tôm post trong mỗi lô khi nhập vào trang trại. Để thực hiện điều này, hãy lấy mẫu ngẫu nhiên từ xe vận chuyển và lấy một thùng mẫu cho mỗi một triệu con tôm post nhận được. Trước khi đếm, để tôm post vào một cái chậu (bồn đếm) và khuấy để tập trung tôm chết vào giữa. Loại bỏ tất cả những con tôm chết và yếu, chỉ đếm những con còn khỏe mạnh và đang hoạt động. Tính trung bình của các thùng được đếm để ước tính số lượng tôm post nhận được tại trang trại; số lượng thực tế nhận được phải được xác nhận bởi người quản lý trang trại.

Đếm tôm post. Trước khi đếm, để tôm post vào một cái chậu (bồn đếm) và khuấy để tập trung tôm chết vào giữa.

Thuần tôm post

Thuần tôm đúng cách là rất quan trọng đối với tỷ lệ sống ban đầu. Cần xác định số lượng bể cần thiết cho mỗi ao: mỗi bể thuần 1.000L có thể thả 250.000 con tôm post. Đặt số lượng bể thuần cần thiết trên đê ao và làm theo các bước sau:

  • Chuẩn bị thiết bị sục khí cho bể thuần. Oxy hòa tan (DO) nên được duy trì ở mức tối thiểu là 6ppm.
  • Chuẩn bị máy bơm hoặc xô để chuyển nước ao sang bể thuần. Thêm nước từ từ và đều trong thời gian yêu cầu, ước tính từ quá trình thuần dưới đây.
  • Thả tôm post vào sáng sớm, khi trời mát. Nếu thả tôm post trễ hơn, hãy che nắng cho bể thuần để tránh ánh nắng trực tiếp.
  • Đổ đầy bể thuần khoảng 10% nước ao. Thêm các thiết bị sục khí thích hợp vào mỗi bể. Đặt các túi tôm post chưa mở vào bể hoặc ao trong khoảng 20-30 phút để thích nghi với nhiệt độ.
  • Mở túi và thả tôm giống vào bể thuần. Thêm 20g thức ăn tôm cỡ nhỏ nhất vào mỗi bể.
  • Thêm nước ao vào một cách đều và từ từ cho đến khi đầy bể theo thời gian thuần được tính toán.
  • Kiểm tra nhiệt độ, DO, pH và độ mặn 15 phút một lần để xác nhận rằng tất cả các thông số đo được điều chỉnh để giống với nước ao.

Sau thời gian thuần đã xác định, đảm bảo rằng tất cả các thông số đều giống với nước ao. Lúc này, tôm post đã sẵn sàng để thả vào ao. Thời gian thuần tối đa là hai giờ.

Để chuyển tôm post từ các bể thuần, có thể sử dụng các ống siphon lớn để thả tôm post vào màn lưới để kiểm tra tỷ lệ sống hoặc trực tiếp vào ao.

Tập hợp các bể thuần bên cạnh một ao đang được thả giống ở Philippines. Bể 1.000L nên thả 250.000 con tôm giống.

Nước ao được bơm vào bể thuần ở Philippines. Khối lượng nước được bơm ước tính bằng với tổng thời gian thích nghi.

Bảng 2. Mẫu thời gian biểu để thuần

Nếu độ mặn ao nuôi < 10ppt thì điều chỉnh độ mặn tại trại giống. Tôm post nhạy cảm hơn với điều chỉnh độ mặn dưới 10ppt và rất nhạy cảm với độ mặn thấp hơn 5ppt. Việc điều chỉnh từ dưới 5ppt sang 0ppt sẽ cần vài ngày để tránh tỷ lệ chết. Tổng thời gian thuần cần thiết sẽ được xác định bằng thời gian dài nhất cần thiết để điều chỉnh độ pH, nhiệt độ hoặc độ mặn.

Một trại thuần tôm có mái che ở Peru. Các ống siphon lớn có thể được sử dụng để thả trực tiếp tôm từ bể thuần ra ao.

Màn lưới và lồng lưới kiểm tra tỷ lệ sống

Những vấn đề xảy ra trong quá trình đóng gói và vận chuyển thường bị bỏ qua. Khi tôm post mua từ trại giống có thể không đạt chất lượng như quy định, túi vận chuyển post có thể đã được đóng gói không đúng cách và/hoặc các vấn đề có thể phát sinh do thời gian vận chuyển ước tính; tất cả những yếu tố này có thể làm giảm chất lượng của tôm post được thả vào ao. Việc sử dụng màn lưới và lồng lưới giúp xác định tôm post có vấn đề ngay tại thời điểm chúng đến trang trại.

Màn lưới

Đặt tối thiểu 2 màn lưới 2 x 2m cho 250.000 PL/màn/ao. Màn lớn hơn có thể được sử dụng để chứa nhiều ấu trùng tôm hơn. Màn lưới nên được làm từ lưới nylon có kích thước mắt lưới là 1,0µm.

Đặt màn cách đáy ao 50cm, mép lưới cách mặt nước 10-20cm. Gắn các góc của màn lưới vào cột cố định vào đáy ao và/hoặc đê. Đặt một hòn đá (500g) vào giữa màn để căng lưới sao cho tâm màn cách đáy ao khoảng 50cm. Các mặt của màn lưới phải nằm dưới mặt nước để cho phép tôm post khỏe hơn bơi ra khỏi màn vào ao.

Kiểm tra màn sau 8-10 giờ. Những con tôm post yếu không thể bơi ra khỏi lưới, tôm chết nên được vớt ra khỏi ao và đếm (ước tính theo trọng lượng).

Tiêu chuẩn có thể chấp nhận được đối với tỷ lệ sống của PL trong màn là 95%. Nếu tỷ lệ sống gần đạt nhưng dưới mức tiêu chuẩn, người quản lý ao có thể quyết định thả thêm tôm post càng sớm càng tốt. Nếu tỷ lệ sống <70%, các ao sẽ cần phải được thả lại, vì hiện tượng chết có thể sẽ tiếp tục trong 7-10 ngày tới.

Sử dụng màn lưới trong ao tôm ở Philippines. Nếu tỷ lệ sống <70%, các ao sẽ cần phải được thả lại, vì hiện tượng chết có thể sẽ tiếp tục trong 7-10 ngày tới.

Lồng lưới

Lồng lưới được sử dụng khi thả giống trực tiếp vào ao từ bể thuần. Lồng lưới khung 1m x 1m x1m được làm bằng lưới nilon có kích thước mắt lưới 1.0µm. Cố định các lồng vào cầu lưới nâng bằng dây. Đặt vật nặng vào mỗi góc lồng để đảm bảo lồng ngập trong nước ao ít nhất 50cm. Mỗi ao nên có tối thiểu ba lồng, mỗi lồng chứa 100 con tôm post và cho ăn 20g thức ăn tôm cỡ nhỏ nhất 2 lần/ngày.

Lồng lưới cần được kiểm tra và đếm sau 7 ngày thả giống để ước tính tỷ lệ sống từ việc thả giống. Tỷ lệ sống là trung bình cộng của ba lồng lưới.

Tỷ lệ sống tiêu chuẩn của PL ở mức chấp nhận được trong lồng lưới là 90%. Nếu tỷ lệ sống gần đạt nhưng thấp hơn tiêu chuẩn này, người quản lý ao có thể quyết định thả thêm tôm giống càng sớm càng tốt. Nếu tỷ lệ sống <60%, các ao sẽ cần được thả lại vì tôm có thể sẽ tiếp tục chết trong 5-7 ngày tới.

Một ví dụ về lồng lưới. Mỗi ao nên có tối thiểu ba lồng lưới, mỗi lồng chứa 100 con tôm giống và cho ăn 20 g thức ăn tôm cỡ nhỏ nhất 2 lần/ngày.

Chất lượng nước ao

Các phép đo thông số chất lượng nước được thực hiện sau khi ao chứa đầy nước. Các thông số cần kiểm tra là mức nước, độ mặn, DO, pH, nhiệt độ, độ kiềm, độ trong, màu nước, sinh vật phù du, Bicarbonate (HCO3-), tổng nitơ amoniac (TAN), amoniac (NH) và tổng số Vibrio (TVC). Mức DO, mức nước, nhiệt độ, độ trong và màu nước phải được kiểm tra hàng ngày, trong khi sinh vật phù du, HCO3-, TAN, NH và TVC có thể được kiểm tra hàng tuần.

Bảng 3. Tiêu chuẩn chất lượng nước để thả tôm post

Theo Aqua Culture Asia Pacific

Nguồn: https://aquaasiapac.com/issue/march-april-2022/

Biên dịch: Huyền Thoại – Tôm Giống Gia Hóa Bình Minh

TÔM GIỐNG GIA HÓA- CHÌA KHÓA THÀNH CÔNG 

Xem thêm:

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *