Kết quả cho thấy rằng có thể thay thế 50% bột cá bằng bột sachi mà không ảnh hưởng đến tăng trưởng

Nghiên cứu này đánh giá tiềm năng của bột sachi

Nghiên cứu này đánh giá tiềm năng của bột sachi (SI) trong việc thay thế bột cá trong khẩu phần ăn của tôm thẻ chân trắng. Ảnh của The lift lorax, Wikimedia Commons.

Protein trong thức ăn cho tôm dao động từ 25-33%, trong đó bột cá thường chiếm tối thiểu 12%. Bột cá là một thành phần thiết yếu trong thức ăn cho cá và giáp xác, nhưng ngành công nghiệp đang phát triển các thành phần thay thế, chủ yếu có nguồn gốc từ thực vật. Protein nguồn gốc từ thực vật có một số lợi thế hơn so với động vật như giá thấp hơn, sẵn có hơn và cải thiện chất lượng thịt của vật nuôi hơn. Việc tìm kiếm và phát triển các nguồn bền vững khác nhau cho phép tỷ lệ thay thế cao hơn và đa dạng hóa các thành phần thức ăn thủy sản vẫn là một mục tiêu của các nghiên cứu về dinh dưỡng động vật.

Cây Sachi hay còn gọi là cây đậu Inca hoặc Sacha Inchi (SI, Plukenetia volubilis) là một loại cây thân gỗ và lâu năm thuộc họ Euphorbiacea, có nguồn gốc từ cao nguyên Peru. Bột từ hạt của chúng chứa khoảng 48% dầu và 27% protein giàu axit amin cysteine, tyrosine, threonine và tryptophan. Các axit béo của sachi chủ yếu là không bão hòa, với khoảng 85% độ bão hòa đa, và tỷ lệ axit béo omega-6, omega-3 là khoảng 0,81, bao gồm khoảng 33–34% axit linoleic và 50–51% axit linolenic. Những axit béo này rất quan trọng đối với sức khỏe và có giá trị dinh dưỡng cao, có tác dụng ngăn ngừa bệnh tim mạch, viêm khớp dạng thấp và ung thư.

Các hợp chất hoạt tính sinh học khác cũng đã được quan sát thấy trong dầu SI, như carotenes, hợp chất polyphenolic, tocopherols và phytosterol. Vì các lý do trên, hạt SI được coi là một nguồn thực phẩm quan trọng cung cấp chất phytochemical tăng cường sức khỏe. Hiện nay, dầu SI được thương mại hóa cho các ứng dụng y học để chăm sóc da và được xem như một chất bổ sung dinh dưỡng cho con người. Dầu SI thu được bằng cách ép các loại hạt, tách dầu và thu được phụ phẩm giàu protein có thể được sử dụng trong thức ăn chăn nuôi. Bột SI có hàm lượng protein cao (59%). Loại bột này chiếm 62–70% hạt và chứa 12–17% dầu. Bột SI được xem như một chất thay thế bột cá cho một số loài như cá rô phi đỏ (Tilapia spp.), các loài cá vùng Amazon và cá hồi vân (Oncorhynchus mykiss), tất cả đều cho kết quả đầy hứa hẹn.

Bài báo này – được tóm tắt từ bài gốc (Renteria, P và cộng sự, 2022. Ảnh hưởng của việc thay thế bột cá bằng bột Plukenetia volubilis đối với sự tăng trưởng, các enzym tiêu hóa và chất lượng cơ thịt tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei). Fishes 2022, 7 (5), 244) – thảo luận về một nghiên cứu đánh giá hiệu quả của việc thay thế bột cá trong khẩu phần của tôm thẻ L. vannamei bằng sachi, đánh giá tốc độ tăng trưởng của tôm, chỉ số dinh dưỡng, men tiêu hóa và chất lượng cơ thịt.

Thiết lập nghiên cứu

Nghiên cứu này được thực hiện tại một trang trại nuôi tôm thương phẩm, Noblecilla Salas, nằm ở Santa Rosa, tỉnh El Oro, Ecuador, sử dụng lồng có thể tích 1m3 đặt trong một ao rộng 1 ha. Trước khi thử nghiệm, tôm được thuần trong 3 tuần và cho ăn chế độ ăn thương mại (Nicovita). Sau khi thuần, 120 con tôm thẻ chân trắng đã được sử dụng để thử nghiệm, với trọng lượng trung bình ban đầu là 3,41 ± 0,31 gram. Tôm được chia ngẫu nhiên và thả vào 8 lồng, 1m3 dưới đáy ao với mật độ 15 con/lồng.

4 chế độ ăn isonitrogenous (350 g protein thô/kg) đã được chuẩn bị tại Khoa Nuôi trồng Thủy sản tại Đại học Kỹ thuật Machala, Ecuador. Hạt SI được sử dụng do hợp tác xã nông nghiệp Aso-Inchi Cantón Las Lajas ở tỉnh El Oro (Ecuador) cung cấp. Chế độ ăn thử nghiệm đã được xây dựng, bao gồm chế độ ăn đối chứng không chứa SI (CT), và 3 chế độ ăn được thay thế một phần bột cá bằng bột SI với mức độ: 15% (D- 15), 25 % (D-25) và 50 % (D-50).

Mỗi nghiệm thức được thử nghiệm 2 lần (4 khẩu phần x 2 lồng mỗi khẩu phần) trong 10 tuần. Tất cả các nhóm được cho ăn theo khẩu phần thí nghiệm 3 lần/ngày với mức 7% trọng lượng cơ thể. Chiều dài và cân nặng của tôm được xác định hàng tuần, và các mẫu cơ thể tôm và gan tụy được thu thập vào cuối thử nghiệm cho ăn để phân tích trong phòng thí nghiệm.

Để biết thông tin chi tiết về thiết kế thí nghiệm, chuẩn bị chế độ ăn, cách nuôi dưỡng, thu thập và phân tích mẫu; và phân tích thống kê, vui lòng tham khảo bài báo gốc. Hình 1 trình bày tóm tắt sơ đồ của nghiên cứu.

Sơ đồ của nghiên cứu, bao gồm việc chuẩn bị chế độ ăn và phân tích mẫu.

Hình 1: Sơ đồ của nghiên cứu, bao gồm việc chuẩn bị chế độ ăn và phân tích mẫu.

Kết quả và thảo luận

Trong nghiên cứu, hiệu quả của việc thay thế bột cá bằng bột SI với 3 mức độ khác nhau trong khẩu phần ăn của tôm thẻ L. vannamei đã được nhận thấy. Cụ thể, việc thay bột cá bằng bột SI có xu hướng làm tăng trọng lượng cuối cùng của tôm tập trung ở phần đầu ngực và phần bụng; tôm được nuôi bằng chế độ D-50 cho thấy giá trị của các chỉ số tăng trưởng cao hơn và hệ số chuyển đổi thức ăn (FCR) tốt hơn.

Tốc độ tăng trưởng cụ thể (SGR) thấp nhất được nhận thấy ở tôm được nuôi bằng chế độ D-25. Điều này có thể liên quan đến trọng lượng gan tụy nặng hơn được quan sát thấy ở nhóm này và có thể là do nhiễm độc gan tụy, dẫn đến enzym tiết ra ít hơn và hiệu quả tiêu hóa thấp hơn, như các nhà nghiên cứu khác đã mô tả khi thử nghiệm bột SI với gia cầm. Tuy nhiên, trong nghiên cứu của chúng tôi, tôm được cho ăn với chế độ D-50 có SGR cao hơn so với nhóm CT và D-25. Do đó, có thể đặt câu hỏi liệu SI có phải là lý do khiến cho SGR thấp hơn và / hoặc trọng lượng gan tụy nặng hơn được nhận thấy ở nhóm D-25 hay không. Sự giảm hoạt động của enzym chymotrypsin, đã được quan sát thấy ở nhóm D-25, có thể liên quan đến SGR thấp hơn được quan sát thấy ở nhóm tôm này.

Các hoạt động của enzym được đo trong mẫu gan tụy của tôm thẻ L. vannamei được nuôi bằng chế độ ăn thử nghiệm trong 70 ngày

Hình 2: Các hoạt động của enzym được đo trong mẫu gan tụy của tôm thẻ L. vannamei được nuôi bằng chế độ ăn thử nghiệm trong 70 ngày. Giá trị được trình bày dưới dạng giá trị trung bình ± độ lệch chuẩn SD (n = 6). Các giá trị với các chữ cái viết thường khác nhau cho thấy sự khác biệt đáng kể giữa các nghiệm thức (p <0,05). Phỏng theo bản gốc.

Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy hàm lượng protein thấp ở phần bụng của tôm đối với tất cả các mức thay thế bột cá trong thử nghiệm, không có thay đổi nào về chất béo thô. Về mặt sản xuất, việc giảm lượng protein có thể được cân bằng với trọng lượng cuối cùng cao hơn thu được ở tôm được nuôi bằng các chế độ ăn thử nghiệm.

Thành phần sinh hóa của bột SI trong nghiên cứu của chúng tôi chứa 51,12 % ± 1,08 protein thô và 10,51 % ± 0,06 chất béo thô, những giá trị này thấp hơn giá trị được mô tả cho bột cá. Một loại bột được làm hoàn toàn từ cá béo, như cá trích, có thể chứa khoảng 71% protein, 9% chất béo, 8% nước và 12% khoáng chất, trong khi bột chủ yếu được làm từ cá trắng có thể chứa khoảng 66 % protein, 5 % chất béo, 8 % nước và 21 % khoáng chất.

Dữ liệu của chúng tôi về enzyme tiêu hóa cho thấy hoạt tính trypsin giảm nhẹ khi thay thế bột SI trong chế độ ăn, không có sự khác biệt thống kê khi so sánh với chế độ ăn đối chứng (Hình 2). Ngược lại, sự giảm hoạt động của chymotrypsin và protease kiềm được nhận thấy khi lượng SI tăng trong khẩu phần thí nghiệm.

Sự gia tăng nhiệt độ trong quá trình chiết xuất lipid của hạt SI có thể làm mất tác dụng của chất ức chế trypsin, cũng như các yếu tố kháng dinh dưỡng khác. Mặc dù hoạt tính của chymotrypsin giảm, nhưng tôm vẫn tăng trưởng tốt và những con được nuôi bằng chế độ ăn SI có tốc độ tăng trưởng tương tự với chế độ ăn đối chứng.

Quan điểm

Các nghiên cứu trước đây cho rằng hàm lượng protein nguồn từ thực vật trong khẩu phần ăn của tôm thẻ chân trắng không được vượt quá 40%, nhưng trong nghiên cứu của chúng tôi, dữ liệu cho thấy rằng 50% bột cá có thể được thay thế bằng bột SI mà không ảnh hưởng đến các chỉ số dinh dưỡng và tăng trưởng của tôm. Ngoài ra, hàm lượng protein trong bụng của những nhóm tôm được cho ăn bằng chế độ ăn chứa bột SI giảm; tuy nhiên, trọng lượng cuối cùng lại cao hơn so với chế độ ăn đối chứng.

Dữ liệu của chúng tôi cho thấy bột SI có thể là nguồn protein thay thế đầy hứa hẹn cho bột cá để nuôi tôm thẻ L. vannamei, mặc dù cần có nhiều nghiên cứu hơn để thiết kế tỷ lệ thay thế tối đa, cũng như xác định các phương pháp xử lý thích hợp, tốt nhất để loại bỏ các yếu tố kháng dinh dưỡng.

Theo Giáo sư Tiến sĩ María J. Sánchez-Muros

Nguồn: https://www.globalseafood.org/advocate/inca-peanut-cake-trialed-as-a-fishmeal-replacement-in-pacific-white-shrimp-diets/

Biên dịch: Huyền Thoại – Tôm Giống Gia Hóa Bình Minh

“Tôm Giống Gia Hóa – Chìa Khóa Thành Công”

Xem thêm:

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *