Đây là thông tin hiển thị trên website, KHÔNG dùng để quét mã QR. Vui lòng liên hệ 1900 86 68 69 nếu link QR dẫn đến trang web này.
Đây là thông tin hiển thị trên website, KHÔNG dùng để quét mã QR. Vui lòng liên hệ 1900 86 68 69 nếu link QR dẫn đến trang web này.

Tóm tắt

Crom (Cr) là một nguyên tố vi lượng thiết yếu cho tất cả các loài động vật, đây cũng là một thành phần quan trọng của yếu tố dung nạp glucose. Nghiên cứu hiện tại được tiến hành để đánh giá tác động của hàm lượng Cr trong khẩu phần ăn lên sự tăng trưởng, tích lũy Cr trong mô, chuyển hóa glucose và lipid và đường dẫn tín hiệu insulin của cua con. Sáu khẩu phần ăn isonitrogenous và isolipidic được xây dựng để chứa lần lượt 1.4 (khẩu phần ăn cơ bản), 1.7, 2.0, 2.2, 2.6 và 3.7 mg/ kg Cr. Kết quả chỉ ra rằng cua được cho ăn khẩu phần ăn 2.2 và 2.6 mg/ kg Cr có tỷ lệ tăng trọng (PWG) và tốc độ tăng trưởng riêng (SGR) cao nhất trong tất cả các khẩu phần ăn. Nồng độ Cr trong gan tụy tăng đáng kể khi tăng mức Cr trong khẩu phần ăn. Cua được cho ăn khẩu phần ăn 3.7 mg/ kg Cr biểu hiện hoạt động của enzyme chống oxy hóa thấp hơn và malondialdehyde (MDA) cao hơn trong gan tụy và hemolymp so với những con được cho ăn các khẩu phần ăn khác. Cua được cho ăn khẩu phần ăn có 2.2 và 2.6 mg/ kg Cr cho thấy hoạt động cao hơn của hexokinase (HK), phosphofructokinase (PFK) và pyruvate kinase (PK). Mức độ biểu hiện của các gen liên quan đến con đường truyền tín hiệu insulin, đường phân và tổng hợp chất béo, chuyển hóa glycolipid (như phosphatidylinositol 3-kinase (pi3k), hexokinase (hk) và synthase axit béo (fas)) trong gan tụy tăng đáng kể. Mức độ biểu hiện của các gen liên quan đến quá trình tân tạo glucose và phân giải lipid như fructose-1,6-bisphosphatase (fbp) và carnitine palmitoyltransferase 1 (cpt1) giảm đáng kể ở những con cua được cho ăn khẩu phần ăn Cr tối ưu. Tóm lại, nhu cầu Cr trong khẩu phần ăn tối ưu được ước tính là 2.34 mg/ kg đối với cua con dựa trên phân tích hồi quy hai độ dốc của PWG so với mức Cr trong khẩu phần ăn, kết quả của nghiên cứu hiện tại chỉ ra rằng Cr trong khẩu phần ăn tối ưu thúc đẩy sự tăng trưởng và tích tụ Cr trong mô và điều chỉnh con đường truyền tín hiệu insulin để kích hoạt quá trình đường phân và glycogenesis để duy trì cân bằng glucose.

1. Giới thiệu

Nguyên tố vi lượng là chất không thể thiếu trong đời sống động vật, tham gia vào nhiều phản ứng sinh hóa trong cơ thể (Hội đồng nghiên cứu quốc gia (NRC), 2011). Crom (Cr) được coi là nguyên tố vi lượng thiết yếu và quan trọng đối với con người và động vật (Mordenti và cộng sự, 1997). Cr là thành phần cấu tạo của yếu tố dung nạp glucose (GTF), một phân tử organometallic có tác dụng tăng cường hoạt động của insulin trong quá trình chuyển hóa carbohydrate, nó có vai trò duy trì mức glucose bình thường trong hemolymp của động vật, tăng khả năng dung nạp glucose, cải thiện hoạt động của insulin, thúc đẩy sự liên kết của insulin với các thụ thể màng tế bào và sự hấp thu glucose ở các mô động vật (Mertz, 1993; Hội đồng nghiên cứu quốc gia (NRC), 2011). Trong tự nhiên, Cr thường tồn tại ở hai dạng: Cr vô cơ và Cr hữu cơ. So với Cr vô cơ, Cr hữu cơ có tốc độ hấp thụ cao hơn và dễ dàng được hấp phụ và sử dụng hơn Cr vô cơ (Gammelgaard và cộng sự, 1999). Cr là đồng yếu tố của insulin, tăng cường insulin thông qua GTF và thúc đẩy quá trình chuyển hóa glucose (Davis và Vincent, 1997). Tuy nhiên, tỷ lệ hấp thụ Cr vô cơ chỉ là 0,4–3%, trong khi tỷ lệ hấp thụ Cr hữu cơ hiệu quả hơn 20–30 lần so với các dạng vô cơ và do đó, khoáng chất dạng chelate là nguồn tốt hơn (Starich và Blincoe, 1983; Gam melgaard và cộng sự, 1999).

Các nghiên cứu trước đây đã chứng minh rằng Cr quá mức có thể làm hỏng sự cân bằng oxy hóa khử của cơ thể và gây tổn thương cho cơ thể (Bagchi và cộng sự, 2002; Yao và cộng sự, 2008). Các chất trung gian chuyển hóa không ổn định (Cr-V và Cr-IV) và sản phẩm cuối cùng (Cr-III) tạo ra phản ứng khử Cr phản ứng với H2O2 để tạo ra các gốc hydroxyl, Cr tạo ra các gốc hydroxyl thông qua phản ứng Haber-Weiss khi có anion siêu oxit nội sinh hoặc H2O2 (Yao và cộng sự, 2008). Cr thúc đẩy quá trình chuyển hóa glucose bằng cách tăng hoạt động của insulin, làm giảm lượng đường trong hemolymp chủ yếu thông qua con đường truyền tín hiệu insulin (Sonksen và Sonksen, 2000). Carbohydrate là nguồn năng lượng quan trọng và carbohydrate hydrat tối ưu trong thức ăn giúp tiết kiệm protein, do đó giảm chi phí thức ăn. Chi phí protein chiếm khoảng 60% tổng chi phí nuôi trồng thủy sản và việc bổ sung carbohydrate tốt nhất vào thức ăn có thể giúp giảm chi phí (Gatlin III và cộng sự, 2007). Tuy nhiên, Cr dư thừa trong khẩu phần ăn uống là độc hại, nhưng vi lượng là cần thiết (Starich và Blincoe, 1983; Hội đồng nghiên cứu quốc gia (NRC), 2011; Shi và cộng sự, 2021).

Trong những năm gần đây, một số nghiên cứu đã được tiến hành để đánh giá tác động của Cr trong khẩu phần ăn đến sinh lý dinh dưỡng ở các loài thủy sinh, đặc biệt là ở cá, chẳng hạn như cá hồi cầu vồng (Oncorhynchus mykiss) (Küçükbay và cộng sự, 2006), cá trắm cỏ (Ctenopharyngodon idellu) (Liu và cộng sự, 2010), cá chép (Cyprinus carpio L.) (Ahmed và cộng sự, 2013), cá mú vàng lớn (Larmichthys crocea) (Wang và cộng sự, 2014), cá rô phi sông Nin (Oreochromis niloticus L.) (Mehrim, 2014), cá chép (Cyprinus car pio) (Cui và cộng sự, 2018), cá bạc má (Trachinotus ovatus) (Wang và cộng sự, 2019). Các nghiên cứu trước đây tập trung vào việc so sánh các giá trị sinh học của Cr hữu cơ và vô cơ, và đánh giá tác động của Cr hữu cơ và vô cơ trong khẩu phần ăn đối với sự tăng trưởng và sử dụng carbohydrate ở các loài cá (Shiau và Shy, 1998; Gatta và cộng sự, 2001a,b; Kuykendall và cộng sự, 2006; Kubrak và cộng sự, 2010; Selcuk và cộng sự, 2010; Liu và cộng sự, 2010; Ahmed và cộng sự, 2012, 2013; Giri và cộng sự, 2014). Các nghiên cứu về nhu cầu dinh dưỡng và quá trình chuyển hóa Cr ở động vật giáp xác chủ yếu tập trung vào tôm, chẳng hạn như tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei), kết quả chỉ ra rằng mức Cr tối ưu trong khẩu phần ăn có tác dụng có lợi đối với cân bằng glucose và tăng trưởng, trong khi Cr quá mức trong khẩu phần ăn gây ra tổn thương oxy hóa và suy giảm tăng trưởng (Shi và cộng sự, 2021).

Cua bùn (Scylla paramamosain) phân bố rộng rãi ở các vùng nhiệt đới, cận nhiệt đới và ôn đới của châu Á, như Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản và Malaysia (Shi và cộng sự, 2019), và do hương vị thơm ngon và chất lượng dinh dưỡng của nó nên ngày càng được người tiêu dùng ưa chuộng (Zhao và cộng sự, 2015). Năm 2020, sản lượng cua bùn của Trung Quốc đạt 159.433 tấn, chiếm 55,5% tổng sản lượng nuôi cua nước biển (Niên giám thống kê nghề cá Trung Quốc, 2021). Hiện nay, cua bùn nuôi trong ao ở Trung Quốc được cho ăn cá tạp đông lạnh và động vật có vỏ tươi sống. Tuy nhiên, với sự cạn kiệt của nghề đánh bắt thuỷ sản tự nhiên và tình trạng ô nhiễm môi trường biển ngày càng trầm trọng, thức ăn truyền thống từ cá tạp và động vật có vỏ không đủ đáp ứng nhu cầu nuôi cua (Luo và cộng sự, 2020a). Do đó, cần có các nghiên cứu về nhu cầu dinh dưỡng của cua bùn để phát triển thức ăn công thức hiệu quả về chi phí, thân thiện với môi trường và cân bằng dinh dưỡng cho cua bùn. Cho đến nay, các nghiên cứu về nhu cầu dinh dưỡng của cua bùn chủ yếu tập trung vào nhu cầu dinh dưỡng của các chất dinh dưỡng đa lượng như protein và lipid (Dong và cộng sự, 2017; Wang và cộng sự, 2021a,b). Một số nghiên cứu tập trung vào nhu cầu về nguyên tố vi lượng của cua bùn (Luo và cộng sự, 2020a,b, 2021). Tuy nhiên, cho đến nay, chưa có nghiên cứu nào về dinh dưỡng và sinh lý Cr cho cua bùn. Do đó, mục tiêu của nghiên cứu hiện tại là xác định nhu cầu Cr tối ưu cho cua con và tiết lộ vai trò của Cr trong khẩu phần ăn uống trong quá trình chuyển hóa carbohydrate bằng cách điều chỉnh con đường truyền tín hiệu insulin. Kết quả của nghiên cứu hiện tại sẽ cung cấp kiến ​​thức lý thuyết để phát triển thức ăn hỗn hợp thân thiện với môi trường và hiệu quả cho cua bùn.

2. Vật liệu và phương pháp

2.1 Tuyên bố về đạo đức

Tất cả các quy trình thử nghiệm đều tuân thủ Quy trình vận hành tiêu chuẩn (SOP) của Hướng dẫn sử dụng động vật thí nghiệm của Đại học Ninh Ba. Nghiên cứu đã được Ủy ban khoa học – đạo đức về thí nghiệm trên động vật của Đại học Ninh Ba chấp thuận.

2.2 Khẩu phần ăn thử nghiệm

Công thức thành phần và thành phần gần đúng của khẩu phần ăn thử nghiệm được đưa ra trong Bảng 1. Bột cá Peru, cô đặc protein đậu nành, bột đậu nành, bột nhuyễn thể và bột gluten ngô được sử dụng làm nguồn protein chính. Dầu cá và lecithin đậu nành được sử dụng làm nguồn lipid. Bột mì được sử dụng làm nguồn carbohydrate. Sáu khẩu phần ăn thử nghiệm isonitrogenous (khoảng 450,0 g/ kg protein thô) và isolipidic (khoảng 80,0 g/ kg lipid thô) được xây dựng để chứa các mức Cr khác nhau bằng cách sử dụng Cr dạng chelate methionine làm nguồn Cr (Zinpro Corp., Hoa Kỳ). Khẩu phần ăn cơ bản được bổ sung 0, 0.18, 0.35, 0.70, 1.40 và 2.79 mg/ kg Cr, các giá trị Cr được phân tích trong các khẩu phần ăn lần lượt là 1.4 (khẩu phần ăn cơ bản), 1.7, 2.0, 2.2, 2.6 và 3.7 mg/ kg (Bảng 1). Các khẩu phần ăn thử nghiệm được xây dựng để đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng của cua con dựa trên nghiên cứu trước đây (Luo và cộng sự, 2021). Thức ăn được sản xuất như đã mô tả chi tiết trước đây (Yuan và cộng sự, 2019). Tóm lại, tất cả các thành phần khô đều được nghiền qua lưới 80 và bổ sung hỗn hợp khoáng chất và vitamin bằng phương pháp mở rộng dần dần, trước khi thêm lipid và nước cất (350 g/ kg). Các thành phần được trộn đều bằng máy trộn Hobart và thức ăn được sản xuất bằng phương pháp đùn lạnh (F-26, Nhà máy máy của Đại học Công nghệ Nam Trung Quốc, Quảng Châu, Trung Quốc) với các viên được cắt thành đường kính 2.0 mm và 3,0 mm (G-250, Nhà máy máy của Đại học Công nghệ Nam Trung Quốc). Thức ăn được đun nóng ở 90℃ trong 30 phút, sấy khô trong không khí đến độ ẩm 100 g/ kg, đóng gói chân không và bảo quản ở − 20 ℃ cho đến khi sử dụng.

Bảng 1 Công thức và thành phần của khẩu phần ăn thử nghiệm (%, vật chất khô).

a Thành phần được mua từ Ningbo Tech-Bank Corp.

b Cholesterol: 99%, Shanghai Macklin Biochemical Co., Ltd., Trung Quốc.

c Hỗn hợp vitamin từ Luo et al. (2021).

d Hỗn hợp khoáng chất (trên kg hỗn hợp khoáng chất): FeC6H5O7, 2.63 g; ZnSO4.7H2O, 7,04 g; CuSO4.5H2O (99%), 4,96 g; MnSO4⋅H2O (99%), 3,11 g; MgSO4.7H2O (99%), 179,23 g; KH2PO4, 174,90 g; NaH2PO4, 78,25 g; C6H10CaO6.5H2O (98%), 25,56 g; CoSO4.7H2O (99%), 1,20 g; Na2SeO3, 0,03 g; KIO3, 0,01 g; Bột zeolit, 523,08 g.

e Thành phần được cung cấp bởi Sinopharm Chemical Reagent Co. Ltd.

f Crom dạng chelate của methionine (Zinpro Corp., Hoa Kỳ), hàm lượng Cr = 1286,50 mg/ kg.

2.3 Nuôi cua và điều kiện thử nghiệm

Thử nghiệm cho ăn được tiến hành tại Cơ sở thí nghiệm của Cơ sở Meishan thuộc Đại học Ninh Ba, và cua con được lấy từ cơ sở nhân giống địa phương. Trước khi thử nghiệm cho ăn, cua được nuôi trong bể nuôi tuần hoàn (RAS) 50 L (48,3 × 28,4 × 38 cm) trong hai tuần để thích nghi với môi trường phòng thí nghiệm. Nước biển liên tục được làm sạch bằng một loạt các phương pháp xử lý lọc bao gồm hệ thống lọc cơ học và lọc sinh học, sau đó chiếu tia cực tím (UV). Cua được tiếp xúc với chế độ ánh sáng nhân tạo khoảng 12 sáng và 12 tối (8:00 sáng đến 8:00 tối). Trong giai đoạn thích nghi, cua được cho ăn khẩu phần ăn cơ bản.

Tổng cộng 192 con cua hoạt động có chân khỏe mạnh được chọn làm cua thí nghiệm (tỷ lệ giới tính: 1:1; trọng lượng ban đầu 20,32 ± 0,31 g). Để ngăn ngừa hiện tượng ăn thịt đồng loại, mỗi bể được chia thành bốn phần riêng biệt, nơi có thể trao đổi không khí và nước biển, 192 con cua được phân ngẫu nhiên vào 48 bể và bốn con cua trong mỗi bể (với hai vách ngăn trong mỗi bể). Mỗi nghiệm thức được chia ngẫu nhiên thành 4 lần lặp lại với 2 bể cho mỗi lần lặp lại (8 con cua cho mỗi lần lặp lại).

Cua được cho ăn lúc 6:00 chiều hàng ngày. Tỷ lệ cho ăn hàng ngày là 4–6% trọng lượng cơ thể của cua để cho ăn đầy đủ, với sự điều chỉnh kịp thời và phù hợp theo lượng cua tiêu thụ và lượng mồi còn lại. Vào khoảng 8 giờ sáng ngày hôm sau, kiểm tra tình trạng mồi còn lại và trạng thái sức sống của cua, ghi chép kịp thời. Phân và thức ăn thừa được loại bỏ hàng ngày bằng cách hút nước và 40% nước trong bể được thay mới sau mỗi hai ngày để duy trì chất lượng nước. Các thông số chất lượng nước biển được đo hàng tuần, độ mặn khoảng 22–25 ppt, nhiệt độ nước là 26–28℃, oxy hòa tan là 6,50 × 10− 3 –7,20 × 10−3 kg / m3, nitơ amoniac thấp hơn 1 × 10−5 kg / m3, pH là 7,3–7,5. Thí nghiệm cho ăn kéo dài trong 9 tuần.

2.4 Thu thập mẫu

Vào cuối thí nghiệm, tất cả cua đều lột xác ít nhất một lần trong thời gian thí nghiệm kéo dài 9 tuần. Vào cuối thử nghiệm cho ăn, những con cua được nhịn ăn trong 24 giờ và sau đó được gây mê bằng tricaine methane sulfonate (MS-222, 100 mg/ L, Sinopharm Chemical Reagent Co., Ltd., Thượng Hải, Trung Quốc) ở nồng độ 100 mg/ L. Tất cả những con cua trong mỗi lần lặp lại được đếm và cân để xác định tỷ lệ sống, phần trăm tăng trọng (PWG) và tốc độ tăng trưởng riêng (SGR).

Hemolymph được lấy từ khoang màng ngoài tim và thu thập từ bốn con cua mỗi lần lặp lại và chuyển vào các ống ly tâm 2 ml trên đá, duy trì ở 4℃ trong 24 giờ và sau đó ly tâm (Eppendorf 5810 R, Đức) ở 1467g trong 10 phút ở 4℃. Dịch nổi hemolymph được thu thập trong các ống PCR và bảo quản ở − 80℃ trước khi phân tích các thông số sinh hóa tiếp theo.

Các mẫu gan tụy từ 4 con cua (sau khi lấy mẫu hemolymph) được mổ nhanh và đặt vào các ống ly tâm chứa dung dịch bảo vệ RNA (dung dịch bảo vệ RNA được mua từ Công ty TNHH Khoa học & Công nghệ Solarbio Bắc Kinh), trước tiên được đặt trong tủ lạnh ở 4℃ qua đêm và sau đó được chuyển vào tủ lạnh ở − 80℃ để bảo quản nhằm phân tích biểu hiện gen và các thông số sinh hóa. Mẫu gan tụy, cơ và mai được lấy từ hai con cua và bảo quản ở nhiệt độ -80℃ để phân tích thành phần và khoáng chất gần đúng.

2.5 Phân tích sinh hóa

2.5.1 Phân tích thành phần và nồng độ khoáng chất trong mô

Hàm lượng protein thô, lipid thô, độ ẩm và tro trong khẩu phần ăn, cơ và gan tụy được xác định theo phương pháp của AOAC (2006). Hàm lượng độ ẩm được xác định bằng cách sấy đến trọng lượng không đổi ở 105℃. Hàm lượng protein thô được xác định bằng phương pháp đốt Dumas và máy phân tích protein (FP-528, LECO, Hoa Kỳ). Lipid thô được xác định bằng phương pháp chiết xuất ete dầu mỏ của hệ thống Soxtec HT (SX360, OPSIS, Thụy Điển). Hàm lượng tro được xác định sau khi đốt trong lông muffle ở nhiệt độ 550℃ trong 8 giờ.

Nồng độ Cr trong khẩu phần ăn, cơ, gan tụy và mai được xác định bằng phương pháp tiêu hóa axit HNO3 68% và được xác định bằng máy quang phổ phát xạ plasma cảm ứng (ICP-OES, PE 2100DV, Perkin Elmer, Hoa Kỳ).

2.5.2 Phân tích sinh hóa hemolymp

Nồng độ albumin (ALB), protein toàn phần (TP), glucose (GLU), triglyceride (TG), cholesterol toàn phần (T-CHO), cholesterol lipoprotein tỷ trọng cao (HDL-C) và cholesterol lipoprotein tỷ trọng thấp (LDL-C) trong hemolymp được xác định bằng máy phân tích huyết học tự động (Hitachi 7600–110, Tokyo, Nhật Bản). Hoạt động của khả năng dọn gốc tự do hydroxyl (SCHR), superoxide dismutase (SOD) và tổng khả năng chống oxy hóa (T-AOC) và hàm lượng malondial dehyde (MDA), glutathione (GSH) và axit pyruvic trong hemolymp được xác định bằng bộ thuốc thử chẩn đoán (Công ty Nanjing Jiancheng, Nam Kinh, Trung Quốc). Ngoài ra, hàm lượng hormone tăng đường huyết ở giáp xác (CHH) và peptide giống insulin (ILP) trong hemolymp được xác định bằng bộ thuốc thử chẩn đoán có liên quan (Công ty TNHH công nghệ sinh học Nanjing Qiaodu, Trung Quốc).

2.5.3 Phân tích hoạt tính của enzyme gan tụy

Các mẫu gan tụy được đồng nhất trong 9 thể tích (w/v) nước muối lạnh 8,9 g/ L, ly tâm ở 850g trong 10 phút ở 4℃, và thu thập dịch nổi và lưu trữ ở −80℃ trước khi phân tích. Hoạt tính của SCHR, SOD, T-AOC, alanine aminotransferase (GPT), aspartate aminotransferase (GOT), hexokinase (HK), phosphofructokinase (PFK) và pyruvate kinase (PK), cũng như hàm lượng MDA, GSH, axit pyruvic (PA) và glycogen gan (Glycogen) trong gan tụy được xác định bằng bộ dụng cụ chẩn đoán (Công ty Nanjing Jiancheng, Nam Kinh, Trung Quốc). Tất cả các hoạt động của enzyme được đo bằng ELISA bước sóng đầy đủ (Spectramax M2, Hoa Kỳ).

2.5.4 PCR định lượng thời gian thực

Hệ thống và quy trình phản ứng phân lập RNA, phiên mã ngược và RT-qPCR được tiến hành theo các phương pháp do Shi và cộng sự công bố (2021). Tóm lại, RNA được chiết xuất từ ​​gan tụy bằng Trizol Reagent (Vazyme, Trung Quốc), nồng độ và tính toàn vẹn của RNA được xác nhận lần lượt bằng máy quang phổ siêu nhỏ (Nanodrop 2000, Thermo Fisher Scientific) và điện di gel agarose (Bio-Rad, Hoa Kỳ). RNA được phiên mã ngược thành DNA bổ sung bằng bộ dụng cụ HiScript® RT SuperMix Reagent (Vazyme, Trung Quốc) và Mastercycler nexus GSX1 PCR (Eppendorf, Đức). Đối với khuếch đại, thể tích phản ứng 20 μl chứa 0,4 μl mồi, 0,8 μl cDNA, 10 μl 2 ×ChamQ SYBR qPCR Green Master Mix (Vazyme, Trung Quốc) và 8,4 μl nước đã xử lý DEPC. Các mồi qPCR đặc hiệu gen được thiết kế bằng phần mềm Primer Premier 5.0 (Bảng 2) với giá trị E dao động từ 95,8% đến 108,3% và β-actin (số hiệu GenBank KC795683.1) được sử dụng làm gen quản gia. qPCR được thực hiện bằng thiết bị PCR định lượng huỳnh quang (Lightcycler 96, Roche, Thụy Sĩ) với quy trình phản ứng trong 2 phút ở 95℃, sau đó là 45 chu kỳ (95℃ trong 10 giây, 58℃ trong 10 giây và 72℃ trong 20 giây). Các đường cong chuẩn được phân tích bằng phương trình E = 10(− 1/độ dốc)-1 và mức độ biểu hiện tương đối được tính toán bằng cách sử dụng 2–ΔΔCt (Livak và Schmittgen, 2001), với khẩu phần ăn cơ bản, không bổ sung được sử dụng làm nhóm đối chứng/tham chiếu.

Bảng 2 Các đoạn mồi PCR định lượng thời gian thực cho quá trình chuyển hóa glucolipid và các gen liên quan đến con đường truyền tín hiệu insulin ở Scylla paramamosain.

2.6 Tính toán và phân tích thống kê

Tỷ lệ tăng trọng (PWG, %) = 100 × [trọng lượng cơ thể cuối cùng (g) – Trọng lượng cơ thể ban đầu (g)] / Trọng lượng cơ thể ban đầu (g);

Tỷ lệ tăng trưởng riêng (SGR, %/ ngày) = 100 × [Ln (trọng lượng cơ thể cuối cùng) – Ln (trọng lượng cơ thể ban đầu)] / ngày thử nghiệm;

Tỷ lệ sống (%) = 100 × (số lượng cua cuối cùng) / (số lượng cua ban đầu);

Tỷ lệ chuyển đổi thức ăn (FCR) = lượng thức ăn tiêu thụ (g) / [trọng lượng cơ thể cuối cùng (g) + trọng lượng cơ thể chết (g) – trọng lượng cơ thể ban đầu (g)];

Lượng thức ăn tiêu thụ (FI, %/ ngày) = 100 × lượng thức ăn tiêu thụ / [(trọng lượng cơ thể cuối cùng + trọng lượng cơ thể ban đầu) / 2] / ngày thử nghiệm;

Tất cả các ngày được trình bày dưới dạng giá trị trung bình ± SEM (n như đã nêu) và được kiểm tra tính chuẩn và tính đồng nhất của phương sai trước khi phân tích thống kê. Sự khác biệt giữa các giá trị trung bình được đánh giá bằng ANOVA một chiều theo sau là kiểm định bội số của Duncan (IBM, SPSS Statistics 20.0). Sự khác biệt được coi là có ý nghĩa ở mức P < 0,05.

3. Kết quả

3.1 Hiệu suất tăng trưởng, sử dụng thức ăn và tỷ lệ sống

Tỷ lệ sống dao động từ 84,38% đến 96,88% và không có sự khác biệt có ý nghĩa giữa tất cả các nghiệm thức (Bảng 3). Cua được cho ăn khẩu phần ăn có 2.2 và 2.6 mg/ kg Cr biểu hiện PWG và SGR cao hơn so với những con được cho ăn các khẩu phần ăn khác và PWG và SGR thấp nhất được quan sát thấy ở những con cua được cho ăn khẩu phần ăn không bổ sung Cr. Tỷ lệ chuyển đổi thức ăn (FCR) và lượng thức ăn tiêu thụ (FI) không bị ảnh hưởng đáng kể bởi mức Cr trong khẩu phần ăn. Như thể hiện trong Hình 1, dựa trên phân tích hai độ dốc của PWG so với mức Cr trong khẩu phần ăn, nhu cầu Cr tối ưu được ước tính là 2.34 mg/ kg đối với cua con.

Hình 1. Mối quan hệ giữa phần trăm tăng cân (PWG) và mức Cr trong khẩu phần ăn dựa trên phân tích hồi quy đường đứt gãy hai sườn dốc, trong đó Xopt biểu thị mức Cr trong khẩu phần ăn tối ưu cho PWG tối đa.

Bảng 3 Hiệu suất tăng trưởng và sử dụng thức ăn của cua con Scylla paramamosain được cho ăn khẩu phần ăn có hàm lượng Cr khác nhau.

Dữ liệu được báo cáo là giá trị trung bình ± SEM của bốn lần lặp lại (n = 4). Các giá trị trong cùng một hàng có chữ số mũ khác nhau thì khác biệt đáng kể (P < 0,05). IW, trọng lượng ban đầu; PWG, phần trăm tăng trọng; SGR, tốc độ tăng trưởng riêng; FCR, tỷ lệ chuyển đổi thức ăn; FI, lượng thức ăn tiêu thụ.

Theo Yingying Zhang, Jiaxiang Luo, Tingting Zhu, Xiangsheng Zhang, Min Jin, Lefei Jiao, Fanyi Meng, Claudia Figueiredo-Silva, Yucong Hong, Qicun Zhou

Nguồn: https://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S2352513422000849

Biên dịch: Nguyễn Thị Quyên – Tôm Giống Gia Hoá Bình Minh

TÔM GIỐNG GIA HÓA – CHÌA KHÓA THÀNH CÔNG

Xem thêm:

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

You cannot copy content of this page