Ngay cả với tỷ lệ bổ sung thấp cũng cải thiện hiệu quả sử dụng thức ăn cho tôm thẻ chân trắng con nuôi ở độ mặn cao

Thu hoạch tôm vào cuối nghiên cứu

Thu hoạch tôm vào cuối nghiên cứu.

Thức ăn nuôi tôm thương mại đang trải qua những thay đổi lớn về thành phần nguyên liệu, đặc biệt là nguồn protein truyền thống. Việc bổ sung bột cá biển, chẳng hạn như cá cơm, nói chung đã giảm đáng kể trong những năm gần đây.

Nhờ đó, các nguồn nguyên liệu sẵn có và rẻ hơn, bao gồm cả những nguồn từ chế biến thức ăn thừa thu được từ cá và nuôi trồng thủy sản (cá ngừ, cá rô phi, cá mòi, cá hồi, cá tra), thức ăn nông nghiệp và thức ăn tinh (đậu nành, cải dầu, ngô, gạo, đậu Hà Lan) và phụ phẩm chế biến từ động vật (phụ phẩm gia cầm, lông thủy phân, máu sấy phun, thịt và xương). Thức ăn có chứa các thành phần thay thế này có thể hoạt động hiệu quả nếu việc bổ sung đúng cách các khoáng chất, axit amin tổng hợp và chất kích thích dinh dưỡng.

Nghiên cứu trước đây đã chỉ ra rằng hàm lượng bột Krill thấp sẽ chống lại tác động của khẩu phần ăn nhiều bột cá đối với tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei). Suresh và cộng sự. (2011) đã xây dựng khẩu phần ăn không bột cá với 20% bột gia cầm. Thức ăn có chứa 3% bột Krill đã cải thiện đáng kể độ hấp dẫn thức ăn, độ ngon miệng và tăng trưởng của tôm. Sa và cộng sự (2013) sử dụng thức ăn dựa trên SPC chỉ có 5,0% bột cá, nhận thấy rằng sự kết hợp giữa bột mực nguyên con và bột Krill bắt đầu từ 0,5% đã giúp tăng trọng lượng tôm cuối cùng; với kết quả tốt hơn với mức 2%. Sabry-Neto và cộng sự (2016) nghiên cứu khẩu phần ăn toàn đạm thực vật, báo cáo rằng chỉ 1% bột Krill có thể tăng lượng thức ăn cho tôm. Ở mức 2%, đã có sự thúc đẩy về tăng trưởng, tăng sản lượng và giảm FCR. Derby và cộng sự (2016) báo cáo rằng bột Krill làm tăng tính ngon miệng của thức ăn bằng cách kéo dài thời gian cho ăn và lượng thức ăn ăn vào.

Mục đích của nghiên cứu là điều tra xem liều lượng bột Krill thấp có thể cải thiện tốc độ tăng trưởng của tôm thẻ chân trắng và hiệu quả sử dụng thức ăn trong điều kiện nuôi ở độ mặn cao hay không, khi hàm lượng bột cá bị cảm nhiễm.

Thiết lập thí nghiệm 

Nghiên cứu này được thực hiện tại các cơ sở nuôi trồng thủy sản LABOMAR ở Đông Bắc Brazil. Tôm sạch bệnh (SPR) có trọng lượng 1,13 ± 0,19 g được thả trong 30 bể ngoài trời có thể tích 1 m3 với mật độ dưới 100 con/ m2 và được nuôi trong 71 ngày (Hình 1). Tôm được cho ăn 4 loại thức ăn chế tạo trong phòng thí nghiệm bằng cách sử dụng thiết bị cho ăn tự động hoạt động từ 4 đến 10 lần một ngày từ 7 giờ sáng đến 5 giờ chiều. Thức ăn được điều chỉnh 2 tuần/ lần bằng cách lấy mẫu và cân riêng 5 con tôm trong mỗi bể nuôi.

Các bể chứa ngoài trời tại LABOMAR được sử dụng trong nghiên cứu (A). Tôm giống khi thả giống (B) để nghiên cứu

Hình 1. Các bể chứa ngoài trời tại LABOMAR được sử dụng trong nghiên cứu (A). Tôm giống khi thả giống (B) để nghiên cứu.

Thức ăn đối chứng (CTL) được xây dựng để chứa 15% bột cá với 1% bột mực (Hình 2, Bảng 1). Từ CTL, ba loại thức ăn khác đã được chuẩn bị bằng cách giảm một nửa bột cá và bổ sung 1, 3 và 5% bột Krill (bột Krill Qrill™ Arctic, Aker BioMarine Antarctic AS, Oslo, Na Uy).

Thức ăn được pha chế sao cho hàm lượng dinh dưỡng xấp xỉ nhau. Hàm lượng protein thô và lipid tổng trong khẩu phần ăn đạt giá trị trung bình (± độ lệch chuẩn) lần lượt là 38,4 ± 0,53 và 9,2 ± 0,16% (cơ sở vật chất khô). Methionine trong khẩu phần ăn cho thấy sự khác biệt lớn nhất trong số các axit amin thiết yếu được phân tích (EAA) với giá trị trung bình là 0,64 ± 0,05%. Tất cả các EAA khác đều nằm trong mức khuyến nghị cho tôm nuôi. Với việc giảm mức bột cá, chi phí công thức giảm xuống còn 19,3, 12,7 và 7,1% khi khẩu phần ăn CTL được so sánh với khẩu phần ăn có 1, 3 và 5% bột Krill.

Thức ăn do phòng thí nghiệm sản xuất (A). Bột Krill được sử dụng trong nghiên cứu (B, từ Aker BioMarine)

Hình 2: Thức ăn do phòng thí nghiệm sản xuất (A). Bột Krill được sử dụng trong nghiên cứu (B, từ Aker BioMarine).

Bảng 1. Thành phần và thành phần hóa học của các khẩu phần thí nghiệm.

Thành phần và thành phần hóa học của các khẩu phần thí nghiệm

*Giá FOB tính bằng đô la Mỹ, đến vùng đông bắc Brazil.
**giá trị phân tích, cơ sở vật chất khô. Nguồn: Nofima Biolab (Fyllingsdalen, Na Uy).

Trong quá trình nuôi tôm, độ mặn của nước tăng dần từ 32 lên 41 g/L, trung bình là 37 ± 1,8 g/L. pH và nhiệt độ của nước lần lượt đạt 7,6 ± 0,26 (7,0 – 8,3) và 30,5 ± 0,65 (27,7 – 34,1ºC). Tổng nitơ amoniac, nitrit và nitrat trung bình lần lượt là 0,38 ± 0,22 (0,20 – 0,71 mg/L), 1,30 ± 1,13 (0,10 – 3,10 mg/L) và 5,78 ± 2,91 (3,00 – 11,00 mg/L).

Khi thu hoạch, tỷ lệ sống cuối cùng của tôm (%), trọng lượng cơ thể (g), tốc độ tăng trưởng hàng ngày (g), sản lượng thu được (g/ m2), lượng thức ăn cung cấp cho mỗi con tôm thả (g) và tỷ lệ chuyển đổi thức ăn (FCR) đã được tính toán cho mỗi khẩu phần ăn điều trị. Để xác định sự khác biệt tiềm ẩn về khả năng hấp dẫn thức ăn, tôm thu hoạch được chuyển sang 5 bể nuôi trong nhà có thể tích 0,5 m3 và thả với mật độ 40 con/bể (70 con/m2).

Tôm được cho ăn ít nhất 2 lần 1 ngày trong 8 ngày. Tổng số khẩu phần ăn được chia đều thành bốn lần cho ăn và được cho ăn cùng lúc trong các khay cho ăn được đặt đối diện nhau trong mỗi bể. Sau 1 giờ, các khay được lấy ra và sấy khô thức ăn thừa trong lò đối lưu. Khả năng hấp dẫn của thức ăn được tính toán bằng cách ước tính tổng lượng thức ăn ăn vào biểu kiến ​​(AFI) dựa trên cơ sở vật chất khô.

Bể nuôi trong nhà có 4 khay cho ăn để đánh giá độ hấp dẫn của thức ăn

Hình 3: Bể nuôi trong nhà có 4 khay cho ăn để đánh giá độ hấp dẫn của thức ăn.

Kết quả và thảo luận

Tỷ lệ sống của tôm cuối cùng cao đạt trung bình 96,2 ± 3,04 % (Bảng 2). Tỷ lệ sống không bị ảnh hưởng bởi khẩu phần ăn ( P > 0,05). Tương tự, loại thức ăn không ảnh hưởng đến sự tăng trưởng của tôm. Tôm tăng trưởng chậm bất kể khẩu phần ăn nào, với 0,10 ± 0,01 g mỗi ngày. Độ mặn cao của nước được quan sát thấy trong quá trình nuôi dường như làm suy giảm sự tăng trưởng.

Tuy nhiên, tôm được cho ăn CTL và thức ăn có 5% bột Krill đạt được trọng lượng cơ thể cao hơn về mặt thống kê so với các loại thức ăn thách thức bột cá khác. Vì trong điều kiện độ mặn quá cao làm tiêu tốn năng lượng cao do điều hòa thẩm thấu, nên việc bổ sung bột Krill ở mức 1 và 3% vào khẩu phần ăn là không đủ để bù đắp cho việc giảm đáng kể lượng bột cá như vậy.

Bảng 2. Hiệu suất cuối cùng (trung bình ± độ lệch chuẩn) của tôm thẻ chân trắng L. vannamei được cho ăn các mức bột Krill được phân loại trong khẩu phần ăn có bột cá trong môi trường nuôi có độ mặn cao. Các chữ cái khác nhau cho thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa các nghiệm thức bằng khẩu phần ăn theo Tukey’s HSD (P <0,05).

Hiệu suất cuối cùng của tôm thẻ chân trắng

Trong nghiên cứu của chúng tôi, mặc dù sản lượng tôm thu được tăng dần với lượng bột Krill cao hơn, nhưng giá trị trung bình (650 ± 41 g/ m2) không khác biệt về mặt thống kê. Tuy nhiên, lượng thức ăn cung cấp cho mỗi con tôm thả trong quá trình nuôi thấp hơn đáng kể trong thức ăn có chứa 3 và 5% bột Krill. Điều này đã dẫn đến FCR được cải thiện ở cả hai nghiệm thức bằng khẩu phần ăn. Tôm trong nghiên cứu có thể chuyển đổi protein trong khẩu phần ăn thành năng lượng tăng trưởng hiệu quả hơn, khi khẩu phần ăn có chứa nhuyễn thể ở mức 3 và 5%, mặc dù giảm một nửa lượng bột cá. Đánh giá mức độ hấp dẫn của thức ăn đã chỉ ra rằng trong khi khẩu phần ăn có 1 và 3% bột Krill được tiêu thụ ít hơn so với CTL, thì việc bổ sung 5% bột Krill dẫn đến lượng thức ăn ăn vào cao hơn (Hình 4). Vì vậy, sự cải thiện về tốc độ tăng trưởng của tôm và hiệu quả sử dụng thức ăn có thể được giải thích một phần bởi tính hấp dẫn của thức ăn cao hơn.

Lượng thức ăn biểu kiến của tôm thẻ chân trắng được cho ăn đồng thời 4 khẩu phần

Hình 4: Lượng thức ăn biểu kiến ​​(AFI, g thức ăn/tôm thả) của tôm thẻ chân trắng được cho ăn đồng thời 4 khẩu phần. AFI (g thức ăn/tôm thả) = tổng lượng thức ăn cung cấp – (thức ăn lọc chất khô + thức ăn thừa (khay cho ăn)) / quần thể thả.

Thảo luận

Nghiên cứu này đã chỉ ra rằng trong điều kiện độ mặn cao, việc giảm một nửa lượng bột cá (từ 15 đến 7%) và các thành phần đắt tiền khác (bột mực, cholesterol, dầu cá) có thể thay thế bằng việc bổ sung 5% bột Krill vào khẩu phần ăn. Hiệu quả sử dụng thức ăn được tăng cường bắt đầu từ việc bổ sung 3% bột Krill vào khẩu phần ăn ngay cả trong điều kiện độ mặn cao. Thức ăn có chứa 5% bột Krill và 7% bột cá sẽ ngon miệng hơn thức ăn có 15% bột cá và 1% bột mực. Việc thay thế bột cá bằng bột Krill ở các mức được áp dụng giúp tiết kiệm 7% chi phí công thức trong thức ăn cho tôm thẻ chân trắng.

Theo Alberto JP Nunes, Hassan Sabry-Neto, Esaú Aguiar Carvalho, Lena Burri

Nguồn: https://www.globalseafood.org/advocate/krill-meal-shrimp-feed-experiments/

Biên dịch: Nguyễn Thị Quyên – Tôm Giống Gia Hóa Bình Minh

“Tôm Giống Gia Hóa – Chìa Khóa Thành Công”

Xem thêm:

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

You cannot copy content of this page