Đây là thông tin hiển thị trên website, KHÔNG dùng để quét mã QR. Vui lòng liên hệ 1900 86 68 69 nếu link QR dẫn đến trang web này.
Đây là thông tin hiển thị trên website, KHÔNG dùng để quét mã QR. Vui lòng liên hệ 1900 86 68 69 nếu link QR dẫn đến trang web này.

Tóm tắt

Nghiên cứu này đánh giá hiệu quả của việc thay thế bột cá bằng tảo xoắn Spirulina (Spirulina platensis) trong thức ăn cho ấu trùng tôm thẻ chân trắng Litopenaeus vannamei trong 90 ngày. Tảo Spirulina được sử dụng với bốn cấp độ (5, 10, 15 và 20). Thí nghiệm được thực hiện trên 15 bể có thể tích nước 150 L. Mỗi nghiệm thức lặp lại 3 lần, mỗi bể chứa 50 con tôm post có trọng lượng 0,02 g. Tôm được cho ăn khẩu phần thí nghiệm chứa khoảng 40% protein hai lần mỗi ngày ở mức 14% trọng lượng cơ thể (trọng lượng ban đầu) và điều chỉnh dần lên 5% vào cuối thí nghiệm. Hiệu suất tăng trưởng của tôm được ghi nhận hai tuần một lần. Kết quả cho thấy thay thế 10% bột cá bằng tảo xoắn Spirulina trong thức ăn cho ấu trùng tôm thẻ chân trắng cho hiệu quả tăng trưởng, sử dụng thức ăn và lợi nhuận cao nhất trong điều kiện thí nghiệm này.

Giới thiệu

Tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei) là một trong những loài thủy sản nuôi trồng quan trọng nhất trên thế giới, được ưa chuộng bởi tốc độ tăng trưởng nhanh, khả năng thích ứng tốt với môi trường và giá trị kinh tế cao. Theo thống kê năm 2010, sản lượng tôm thẻ chân trắng chiếm tới 71,8% tổng sản lượng tôm biển nuôi toàn cầu (FAO, 2012). Nhu cầu ngày càng tăng của thị trường tôm nuôi thúc đẩy việc nghiên cứu và phát triển thức ăn hiệu quả, trong đó, nguồn protein chất lượng cao đóng vai trò then chốt. Bột cá từ lâu được xem là thành phần chủ đạo trong khẩu phần ăn của tôm biển bởi hàm lượng cân bằng axit amin thiết yếu, axit béo, khoáng chất, vitamin và hương vị hấp dẫn (Suárez và cộng sự, 2009). Tỷ lệ bột cá trong thức ăn tôm thương mại thường dao động từ 25% đến 50%, là thành phần quan trọng và đắt đỏ nhất (GonzalezRodriguez & Abdo de la Parra, 2004). Tuy nhiên, nhu cầu ngày càng tăng và khai thác quá mức nguồn lợi cá khiến cho việc sử dụng bột cá trở nên không bền vững và tốn kém. Do đó, việc tìm kiếm các nguyên liệu protein thay thế, vừa đảm bảo chất lượng dinh dưỡng, vừa tiết kiệm chi phí và bảo vệ môi trường là một trong những mục tiêu quan trọng của ngành nuôi trồng thủy sản hiện nay (Kiron và cộng sự, 2012).

Vi tảo được xem là nguồn thực phẩm và năng lượng tiềm năng bởi hiệu quả quang hợp và giá trị dinh dưỡng cao. Nhờ hàm lượng protein dồi dào, vi tảo được đánh giá là nguồn thay thế đầy hứa hẹn cho bột cá hoặc là chất phụ gia giá trị trong thức ăn thủy sản (Ju và cộng sự, 2012). Ngoài ra, vi tảo còn là nguồn cung cấp dồi dào protein, vitamin, axit béo và khoáng chất (Radhakrishnan và cộng sự, 2014), trở thành nguyên liệu lý tưởng cho thức ăn nuôi trồng thủy sản bền vững. Về thành phần axit amin, hầu hết các loại vi tảo đều có khả năng so sánh tích cực với các loại protein thực phẩm khác (Becker, 2007).

Trong số các loại vi tảo được sử dụng làm thức ăn cho cá và tôm, Spirulina platensis nổi bật là nguồn dồi dào protein, vitamin, khoáng chất, axit amin thiết yếu, axit béo và sắc tố chống oxy hóa như carotenoids (Radhakrishnan và cộng sự, 2014). Protein Spirulina có thành phần axit amin cân bằng, nồng độ methionine, tryptophan và các axit amin khác tương tự như casein. Do đó, nó có thể được sử dụng như chất bổ sung một phần hoặc thay thế hoàn toàn protein trong thức ăn thủy sản, đồng thời là nguyên liệu thức ăn rẻ hơn so với các nguồn gốc động vật khác (Habib và cộng sự, 2008).

Nghiên cứu này nhằm đánh giá hiệu quả của việc thay thế bột cá bằng vi tảo biển Spirulina platensis đối với hiệu suất tăng trưởng, sử dụng thức ăn và hiệu quả kinh tế ở ấu trùng tôm thẻ chân trắng L. vannamei.

Chuẩn bị nghiên cứu

Tôm post L. vannamei được lấy từ trại giống tôm thương mại (Berket Ghalioun, Kafr Al-Sheikh, Ai Cập). Tôm được vận chuyển trong túi polythene hai lớp đã được oxy hóa. Khi tôm đến phòng thí nghiệm, chúng được chuyển vào bể thích nghi chứa nước biển (độ mặn, 32ppt). Trước khi bắt đầu thí nghiệm, tôm được thích nghi với điều kiện phòng thí nghiệm trong hai tuần và được cho ăn hai lần mỗi ngày với khẩu phần ăn thương mại (Skretting: 38% protein thô, 8% chất béo thô và 5,9 chất xơ thô với 3980 Kcal năng lượng).

Thí nghiệm được thực hiện trên 15 bể có thể tích nước 150 L. Mỗi nghiệm thức lặp lại 3 lần, mỗi bể chứa 50 con Postlarva có trọng lượng 0,02 g. Bể được đổ đầy nước biển sau khi được lọc bằng lưới sinh vật phù du (50µm) để ngăn chặn sự xâm nhập của các vật liệu không mong muốn và các hạt lơ lửng vào bể và được pha loãng với nước ngọt để tạo độ mặn (32 ppt). Tất cả các bể đều được cung cấp hệ thống khuếch tán 3 ống dẫn khí bằng đá được lắp vào máy thổi khí (220 w). Sục khí được cung cấp 24 giờ trong suốt thí nghiệm. Tất cả các bể luôn được che bằng tấm nhựa để ngăn tôm thoát ra ngoài. Nước được thay mỗi tuần một lần.

Sau hai tuần, tất cả các bể đều được thả tôm giống. Tôm được cho ăn các khẩu phần thí nghiệm (như trong Bảng 1) hai lần mỗi ngày với tỷ lệ 14% trọng lượng thân (khối lượng ban đầu) và giảm dần xuống 5% khi kết thúc thí nghiệm. Khẩu phần ăn hàng ngày của mỗi nghiệm thức được tính toán và điều chỉnh bằng cách ước tính sinh khối trung bình được lấy mẫu hai tuần một lần.

Bảng 1: Thành phần và phân tích gần đúng của các khẩu phần thí nghiệm (% trên cơ sở DM).

1Kg hỗn hợp khoáng premix chứa Mn, 22 g; Zn, 22 g; Fe, 12 g; Cu, 4 g; I, 0,4 g, Selenium, 0,4 g và Co, 4,8 mg.

2Mỗi kg vitamin chứa Vitamin A 4,8 triệu IU, D3 0,8 triệu IU; E, 4 g; K, 0,8 g; B1, 0,4 g; Riboflavin, 1,6 g; B6, 0,6 g, B12, 4 mg; Axit pantothenic, 4 g; Axit nicotinic, 8 g; Axit folic, 0,4 g Biotin, 20 mg.

3Chiết xuất không chứa nitơ = 100 – (%Protein + %Fat + %Fiber + %Ash).

4Tổng năng lượng dựa trên protein (5,65 Kcal/g), chất béo (9,45 Kcal/g) và carbohydrate (4,11Kcal/g). Theo (NRC, 2011)

Khẩu phần thí nghiệm được chuẩn bị bằng cách cân từng thành phần riêng lẻ và trộn khoáng chất, vitamin và chất phụ gia với ngô. Sau đó, hỗn hợp này được thêm vào các thành phần cùng với dầu. Nước được thêm vào hỗn hợp cho đến khi thích hợp để tạo hạt. Hỗn hợp này được đưa qua máy tạo hạt CBM đường kính 2mm. Các viên được sấy khô ở nhiệt độ phòng và giữ đông lạnh cho đến khi bắt đầu thí nghiệm.

Tảo Spirulina (Arthrospira platensis) được sử dụng trong nghiên cứu này được lấy từ thị trường địa phương (Alhlw, Co. for bios production-Zagazik, Egypt). Phân tích hóa học của Spirulina (Arthrospira platensis) được thể hiện trong Bảng (2).

Bảng (2): Phân tích hóa học của Spirulina (Arthrospira platensis).

Các thông số hiệu suất tăng trưởng:

Trọng lượng tôm (g) được đo vào lúc bắt đầu thí nghiệm và hai tuần một lần bằng cách thu thập số lượng tôm ngẫu nhiên từ mỗi bể và cân bằng cân kỹ thuật số phân tích, sau đó đưa trở lại bể của chúng trong quá trình thí nghiệm. Tôm Tăng trọng (WG), Tốc độ tăng trưởng riêng (SGR) và Tỷ lệ sống % (SR) được tính theo các công thức sau:

  • Tăng cân (WG) = Trọng lượng cơ thể cuối cùng (g) – Trọng lượng cơ thể ban đầu (g).
  • Tốc độ tăng trưởng riêng % (SGR) = [(ln FBW – ln IBW) /ngày thí nghiệm]×100.
  • Tỷ lệ sống % (SR) = (Số tôm cuối cùng/Số tôm ban đầu)×100.

Thông số sử dụng nguồn thức ăn:

Các thông số sử dụng thức ăn được tính theo các phương trình sau:

  • Tỷ lệ chuyển đổi thức ăn (FCR)= Tổng lượng thức ăn tiêu thụ/tăng trọng.
  • Hiệu suất thức ăn (FE) %= (Trọng lượng cuối cùng – trọng lượng ban đầu) / lượng thức ăn tiêu thụ ×100.
  • Tỷ lệ hiệu quả sử dụng protein (PER) = mức tăng trọng lượng cơ thể (g)/ lượng protein ăn vào (g).

Phân tích thống kê:

Tất cả dữ liệu của các biến đo được phân tích bằng ANOVA hai chiều. ANOVA được thực hiện bằng chương trình SAS v9.0.0 (SAS, 2004). ANOVA được theo sau bởi thử nghiệm của Duncan (Duncan, 1955) ở mức ý nghĩa P<0,05.

Đánh giá kinh tế:

Chi phí thức ăn để tăng sinh khối tôm được ước tính bằng một phân tích kinh tế đơn giản. Ước tính này dựa trên giá thị trường bán lẻ địa phương của tất cả các thành phần dinh dưỡng tại thời điểm nghiên cứu.

  • Chi phí/kg khẩu phần (LE) = Chi phí cho mỗi Kg khẩu phần L.E.
  • Thức ăn tiêu thụ để sản xuất 1kg tôm (kg) = Lượng thức ăn ăn vào mỗi con tôm trong mỗi giai đoạn/ trọng lượng cuối cùng của mỗi con tôm Kg/Kg.
  • Chi phí thức ăn/kg tôm tươi (LE) = Bước 1× bước 2.
  • % chi phí thức ăn tương đối/kg tôm = Số liệu tương ứng ở bước 3/số liệu cao nhất ở bước này.
  • Chi phí thức ăn/1Kg tăng trọng (LE) = Lượng thức ăn ăn vào trên mỗi Kg tăng trọng × bước 1.
  • % chi phí thức ăn tương đối của Kg tăng trọng = Số tương ứng ở bước 5/ số cao nhất ở bước này.

Kết quả và thảo luận

Hiệu suất tăng trưởng và sử dụng thức ăn:

Bảng (3) trình bày ảnh hưởng của việc thay thế hàm lượng protein Spirulina platensis trong khẩu phần ăn khác nhau lên hiệu suất tăng trưởng và việc sử dụng thức ăn trong các bể thí nghiệm của L. vannamei. Sau thử nghiệm 90 ngày cho ăn, mức tăng trọng trung bình của tôm được cho ăn khẩu phần ăn T1 và T2 khác biệt đáng kể (P<0,05) so với khẩu phần ăn đối chứng. Khẩu phần ăn tảo xoắn thay thế bột cá ở mức 5 và 10% cho thấy tăng cân cao hơn; 8,55±0,08g đối với T1 và 8,63±0,72g đối với T2. Nghiệm thức 10% (T2) có hiệu quả sử dụng thức ăn (FE) và tỷ lệ hiệu quả sử dụng protein (PER) tốt nhất đáng kể (P<0,05) so với các nhóm thử nghiệm còn lại.

Bảng (3): Ảnh hưởng của việc sử dụng hàm lượng protein Spirulina platensis đến hiệu suất tăng trưởng và việc sử dụng thức ăn (Trung bình±SD) trong các bể thí nghiệm nuôi tôm thẻ chân trắng L. vannamei trong 90 ngày.

Dữ liệu được trình bày dưới dạng phương tiện ± SD. Các giá trị trong cùng một hàng có chữ cái đầu khác nhau thì khác nhau đáng kể (P<0,05).

Trong nghiên cứu này, tốc độ tăng trưởng tốt nhất và FCR hiệu quả nhất đạt được ở T2. Tác dụng tăng cường tăng trưởng của tảo xoắn là do vai trò của nó trong khả năng tiêu hóa chất dinh dưỡng và hàm lượng cao một số chất dinh dưỡng, như vitamin và khoáng chất (Abdel-Tawwab và Ahmad, 2009). Mặt khác, tác động tiêu cực của mức độ bổ sung tảo xoắn vào khẩu phần ăn cao đối với sự phát triển của cá có thể là do lượng phốt pho sẵn có giảm và độ ngon miệng của thức ăn giảm (Olvera-Novoa và cộng sự, 1998). Sự khác biệt về tác dụng của tảo xoắn đối với hiệu suất tăng trưởng của cá là do hàm lượng dinh dưỡng khác nhau của các loài tảo xoắn được sử dụng trong nghiên cứu (Nandeesha và cộng sự, 1998). Nandeesha và cộng sự (2001) phát hiện ra rằng bột cá (FM) có thể được thay thế hoàn toàn bằng tảo xoắn trong khẩu phần ăn của cá chép rohu (Labeo rohita) và thậm chí có thể đạt được tốc độ tăng trưởng cao hơn đáng kể so với việc sử dụng FM làm nguồn protein duy nhất, trong khi không có tác dụng đáng kể nào. được quan sát về hiệu suất tăng trưởng của catla (Catla catla) bằng khẩu phần ăn bổ sung tảo xoắn tương tự. Chẳng hạn như sự khác biệt trong phản ứng tăng trưởng của L. rohitaC. catla đối với tảo xoắn trong khẩu phần ăn cho thấy rõ ràng phản ứng tăng trưởng của cá đối với tảo xoắn có thể là tùy theo loài. Yếu tố quan trọng khác ảnh hưởng đến kết quả sử dụng tảo xoắn là thành phần của khẩu phần ăn thử nghiệm trong đó tảo xoắn được kết hợp (Takeuchi và cộng sự, 2002).

James và cộng sự (2006) quan sát thấy tỷ lệ tiêu thụ thức ăn cao hơn ở Xiphophorus helleri khi được cho ăn thức ăn chứa 8% tảo xoắn. El-Sayed (1994) cũng ghi nhận kết quả tương tự ở cá giống Rhabdosargus sarba được nuôi bằng thức ăn chứa 32% tảo xoắn. Nakagawa và Gomez-Diaz (1995) phát hiện ra rằng tỷ lệ sống sót và tăng trưởng của Macrobrachium rosenbergii được cải thiện khi bổ sung 5 – 20% bột tảo xoắn vào khẩu phần ăn. Tongsiri và cộng sự (2010) cho thấy việc thay thế 5% protein bột cá bằng tảo xoắn mang lại hiệu quả tăng trưởng tốt nhất cho P. gigas. Olvera-Novoa và cộng sự (1998) báo cáo rằng tảo xoắn có thể thay thế tới 20% protein bột cá trong khẩu phần ăn của O. rêuambicus mà không ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng và khả năng sử dụng thức ăn. Güroy và cộng sự (2012) ghi nhận trọng lượng cá cichlid đuôi vàng tăng từ 12% đến 17% khi bổ sung 2,5% và 10% Spirulina. Adel và cộng sự (2016) quan sát thấy cá tầm con tăng trưởng 57% và cải thiện FCR 21% khi được nuôi bằng 10% Spirulina. Kohal và cộng sự (2018) báo cáo tốc độ tăng trưởng của tôm anh đào đỏ tăng 63%, FCR cải thiện 15% và tỷ lệ sống tăng từ 25,7% lên 81,3% khi bổ sung 10% Spirulina. Việc thay thế một phần bột cá bằng S. platensis đã cho thấy sự tăng trưởng đầy hứa hẹn ở tôm thẻ chân trắng L. vannamei (Hanel và cộng sự, 2007). Mức cho phép của bột tảo xoắn khi bổ sung vào khẩu phần ăn để thay thế bột cá là khoảng 25% và không có tác động có hại đến sự phát triển của tôm thẻ chân trắng L. vannamei, và việc thay thế lên đến 50% cũng không thể ảnh hưởng đến lượng thức ăn ăn vào (Sá và Nunes, 2011). Những ví dụ này cho thấy rằng nếu sử dụng Spirulina ở mức độ thấp trong khẩu phần ăn của cá có thể không chỉ mang lại lợi ích về sức khỏe mà còn mang lại lợi ích kinh tế bằng cách cải thiện FCR.

Đánh giá kinh tế:

Tính toán hiệu quả kinh tế của các khẩu phần thử nghiệm dựa trên chi phí thức ăn, chi phí cho một Kg tăng trọng và tỷ lệ của nó với nhóm đối chứng được trình bày trong Bảng (4). T2 có chi phí thức ăn trên mỗi kg tôm tươi thấp nhất (18,59 LE), % chi phí thức ăn/kg tôm (85%), chi phí thức ăn/Kg tăng trọng (18,59 LE) và % chi phí thức ăn tương đối trên Kg tăng trọng (85%) .

Bảng (4): Phân tích kinh tế tôm thẻ chân trắng Litopenaeus vannamei được bổ sung Spirulina ở các mức độ khác nhau trong 90 ngày.

Kết luận

Có thể kết luận rằng khẩu phần ăn trong đó bột cá được thay thế bằng 10% tảo xoắn là tốt nhất về hiệu suất tăng trưởng, sử dụng thức ăn và đánh giá kinh tế trong các điều kiện thí nghiệm này.

Theo Shimmaa A.H. Zidan, A.E. Eid, Mervat A. M. Ali và Zaki Z. Sharawy

Nguồn: https://www.academia.edu/69864423/EFFECT_OF_USING_DIFFERENT_LEVELS_OF_Spirulina_platensis_ON_GROWTH_PERFORMANCE_OF_MARINE_SHRIMP_Litopenaeus_vannamei

Biên dịch: Nguyễn Thị Quyên – Tôm Giống Gia Hóa Bình Minh

TÔM GIỐNG GIA HÓA – CHÌA KHÓA THÀNH CÔNG

Xem thêm:

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

You cannot copy content of this page