Đây là thông tin hiển thị trên website, KHÔNG dùng để quét mã QR. Vui lòng liên hệ 1900 86 68 69 nếu link QR dẫn đến trang web này.
Đây là thông tin hiển thị trên website, KHÔNG dùng để quét mã QR. Vui lòng liên hệ 1900 86 68 69 nếu link QR dẫn đến trang web này.

Tóm tắt

Khó khăn chính trong việc phát triển nuôi tôm thâm canh là chất thải của các trang trại nuôi tôm gây bất lợi cho môi trường. Để giảm thiểu tác động môi trường của việc xả nước thải, nuôi mô hình nuôi tôm trong hệ thống khép kín với việc hạn chế thay nước được khuyến khích áp dụng. Tuy nhiên, vấn đề chính của hệ thống hạn chế thay nước là tình trạng ao nhanh chóng xuống cấp do nồng độ amoniac và nitrit tăng cao. Việc bổ sung các vật liệu carbon như mật đường vào ao nuôi tôm bằng cách điều chỉnh tỷ lệ carbon:nitơ là một trong những chiến lược hiệu quả nhất để kiểm soát amoniac và nitrit trong Mô hình nuôi tôm hạn chế thay nước (LWEM). Do đó, mục đích chính của nghiên cứu này là đánh giá ảnh hưởng của tỷ lệ C:N đến chất lượng nước và sản lượng tôm trong nuôi tôm sú Penaeus monodon với Mô hình hạn chế trao đổi nước (LWEM) sử dụng mật đường làm nguồn carbon. Nghiên cứu cho thấy mức tỷ lệ C:N ảnh hưởng đáng kể đến chất lượng nước và các thông số sản xuất tôm trong mô hình nuôi tôm LWEM sử dụng mật đường làm nguồn carbon.

Giới thiệu

Trong nghề nuôi tôm truyền thống, việc xả nước chủ yếu nhằm ngăn ngừa chất lượng nước xấu đi và kiểm soát nitơ vô cơ. Hoạt động hạn chế thay nước là một phương pháp tiếp cận để cải thiện tính bền vững và an toàn sinh học trong nuôi tôm. Tuy nhiên, vấn đề chính liên quan đến hệ thống hạn chế trao đổi nước là hiện tượng phú dưỡng diễn ra nhanh chóng trong ao, do nồng độ chất dinh dưỡng (amoniac và nitrit) và các chất hữu cơ tăng cao trong suốt thời gian nuôi (Thakur & Lin, 2003). Một số nghiên cứu về việc loại bỏ nitơ vô cơ bằng vi khuẩn dị dưỡng thông qua việc bổ sung chất nền cacbon đã được thực hiện ở ao nuôi cá (Avnimelech, và cộng sự, l992, l994; Kochva và cộng sự, l994; Avnimelech, và cộng sự, l999; Allen, 2001) và cả ao nuôi tôm (Arnold và cộng sự, 2009; Asaduzzaman và cộng sự, 2009).

Để tối đa hóa sự phát triển của vi khuẩn dị dưỡng, cần có tỷ lệ cân bằng giữa cacbon và nitơ trong thức ăn. Một số tác giả (ví dụ: Tezuka, 1990; Anvimelech và cộng sự, 1992; 1994; Avnimelech, 1999; McIntosh, 2000; Panjaitan, 2010) đã báo cáo rằng tỷ lệ C:N trong thức ăn ở mức 15,0:1 đã loại bỏ nitơ vô cơ khỏi nước một cách hiệu quả hơn. Hơn nữa, việc sử dụng mật đường trong mô hình nuôi tôm LWEM thông qua việc kiểm soát khẩu phần C:N trong thức ăn có thể là một chiến lược mới để cải thiện quản lý trong nuôi tôm và mức thức ăn tốt nhất có tỷ lệ C:N đạt được là 20,0 :1 trong nuôi tôm không thay nước (Panjaitan, 2010). Do đó, vẫn còn một số câu hỏi chưa được giải đáp: Liệu việc sử dụng mật đường có mang lại lợi nhuận trong mô hình nuôi tôm LWEM (5% tổng thể tích hàng tuần) xét về các biến số chất lượng nước và sản lượng tôm? Tỷ lệ C:N tốt nhất trong nuôi tôm với LWEM là bao nhiêu? Liệu mô hình nuôi tôm LWEM sử dụng mật đường có thể là một mô hình thay thế giải quyết vấn đề của ngành tôm hiện nay? Sẽ là thông tin hữu ích nếu nghiên cứu về ảnh hưởng của mật đường thông qua việc kiểm soát mức tỷ lệ C:N đến chất lượng nước và sản lượng tôm được thực hiện trong mô hình nuôi tôm sú Penaeus monodon LWEM vì cho đến nay, chưa có nghiên cứu nào về mô hình nuôi tôm sú Penaeus monodon LWEM sử dụng mật đường làm nguồn carbon.

Mục đích của nghiên cứu này là điều tra ảnh hưởng trong phòng thí nghiệm của tỷ lệ C:N trong thức ăn đến chất lượng nước, tỷ lệ sống của tôm, tốc độ tăng trưởng, tỷ lệ tăng trọng, tỷ lệ chuyển hóa thức ăn (FCR), tỷ lệ tiêu thụ nước và nước thải thải ra từ mô hình nuôi tôm LWEM. (5% tổng thể tích hàng tuần).

Vật liệu và phương pháp

Nuôi tôm thí nghiệm

Thí nghiệm được tiến hành trong nghiên cứu này là nuôi tôm với mô hình hạn chế thay nước ở mức 5% tổng thể tích hàng tuần (viết tắt là LWEM). Quy trình được sử dụng trong thí nghiệm là: (1) không dùng mật đường với tỷ lệ C:N=6,5 (LWEM6.5), (2) sử dụng mật đường có tỷ lệ C:N=15,0 (LWEM15.0), (3) sử dụng mật đường có Tỷ lệ C:N=17,5 (LWEM17.5), (4) sử dụng mật đường có tỷ lệ C:N=20,0 (LWEM20.0) và (5) sử dụng mật đường có tỷ lệ C:N= 22,5 (LWEM22.5).

Thí nghiệm được tiến hành trong bể thí nghiệm 160 L trong suốt 8 tuần nuôi. Tất cả các nghiệm thức đều có ba lần lặp lại và phân bổ cho mỗi nghiệm thức hoàn toàn ngẫu nhiên. Các bể thí nghiệm được trộn và sục khí bằng hai viên đá khí lơ lửng dưới đáy cột nước ở mỗi bể. Tất cả các bể đều được đổ đầy 160 L nước biển và việc thay nước được thực hiện trong mỗi bể (5% tổng thể tích hàng tuần) trong suốt nghiên cứu. Lượng nước trong mỗi bể được duy trì không đổi bằng cách thêm 10 L nước ngọt (nước máy) hàng tuần để thay thế lượng nước thải và bù cho lượng bay hơi. Mục đích khác của việc thêm nước ngọt vào mỗi bể là để điều chỉnh yêu cầu độ mặn của tôm sú Penaeus monodon. Nhiệt độ nước và độ mặn của thí nghiệm trong 8 tuần lần lượt dao động là 21,8-24,8° C và 25,50-33,80 ppt.

Mỗi bể nuôi thí nghiệm được thả 4 con tôm sú Penaeus monodon hoặc tương đương 30 con tôm/ m2 (Allan & Manguire, 1992). Giá trị trung bình ± độ lệch chuẩn của trọng lượng tôm tại thời điểm thả giống thí nghiệm là 2,36 ± 0,03 gam. Tôm được lấy từ trại giống của Đại học Charles Darwin, Australia. Tôm thí nghiệm được cho ăn thức ăn công nghiệp (Sản phẩm của Công ty Đài Loan) với hàm lượng protein thô 38 %. Mức thức ăn sử dụng trong thí nghiệm là 5 % trọng lượng cơ thể/ngày trong thời gian nghiên cứu (theo khuyến nghị của công ty) và được cho ăn 2 lần/ngày (50 % tổng lượng thức ăn cần thiết mỗi lần vào lúc 08:00 sáng và 06:00 chiều) như được tiến hành ở ao nuôi cá của Avnimelech và cộng sự (1992) trong khi mật đường được bón 1 lần/ ngày vào lúc 08 giờ sáng.

Mức độ tỷ lệ C:N trong thức ăn được tính bằng cách chia tổng lượng carbon đầu vào với tổng lượng nitơ đầu vào được sử dụng trong nuôi tôm (Avnimelech và cộng sự, 1989; Avnimelech và cộng sự, 1992a; Avnimelech và cộng sự, 1994; Kochva và cộng sự, 1994; Avnimelech, 1999). Nguồn carbon chính của nuôi tôm là từ thức ăn và mật đường, trong khi nguồn nitơ chính là thức ăn. Hơn nữa, hàm lượng nitơ trong thức ăn được xác định bằng giả định rằng thức ăn có 30% protein chứa 4,65% nitơ (Avnimelech, 1999). Do đó, hàm lượng nitơ trong thức ăn có hơn 30% protein được tính bằng cách chuyển đổi giả định đó trong khi hàm lượng carbon trong thức ăn và mật đường được sử dụng trong mỗi nghiên cứu lần lượt là 38,5% và 29,71%. Do đó, lượng mật đường cần thiết cho mỗi 1 gam thức ăn trong mỗi lần xử lý lần lượt là 0,00, 1,68, 2,17, 2,67 và 3,16 gam đối với LWEM6.5, LWEM15.0, LWEM17.5, LWEM20.0 và LWEM22.5. Hơn nữa, vi khuẩn dị dưỡng được sử dụng trong mỗi nghiệm thức đều có nguồn gốc từ vi khuẩn tự nhiên của nước biển được sử dụng (Avnimelech, 1999).

Đo lường và phân tích chất lượng nước

Các thông số về chất lượng nước như amoniac, nitrit, nitrat, nhiệt độ, độ mặn, pH, oxy hòa tan và tổng số vi khuẩn được đo hàng tuần. Độ mặn, nhiệt độ, độ pH và oxy hòa tan trong nước được đo bằng máy kiểm tra chất lượng nước Horiba (Mẫu U-10). Trước khi đo các thông số đó, máy kiểm tra chất lượng nước Horiba đã được hiệu chuẩn thủ công như mô tả trong hướng dẫn sử dụng.

Mức độ vi khuẩn dị dưỡng sống được xác định bằng cách đếm các khuẩn lạc phát triển trên đĩa Tryptone Soya Agar (TSA) với 10% NaCl (Jorgensen và cộng sự, 1993). Trước khi cấy từng mẫu lên môi trường thạch, đã tiến hành pha loãng nối tiếp trong dung dịch muối sinh lý gồm 9% NaCl (Sohier và Bianchi, 1985). Mức độ vi khuẩn được biểu thị bằng đơn vị hình thành khuẩn lạc trên mỗi ml nước (CFU/ ml) (Smith, 1998).

Tỷ lệ sống, tốc độ tăng trưởng, tỷ lệ tăng trọng và tỷ lệ chuyển đổi thức ăn của tôm

Tỷ lệ sống, tốc độ tăng trưởng, sản lượng và tỷ lệ chuyển đổi thức ăn của tôm được xác định 2 tuần/ lần trong thời gian 8 tuần. Tổng trọng lượng cơ thể của tôm (W) được đo cho mỗi thùng thí nghiệm. Tương tự, số lượng tôm sống (N) trong mỗi bể được đếm. Hơn nữa, lượng thức ăn được sử dụng trong mỗi bể (Wf) đã được ghi lại. Trọng lượng cơ thể trung bình (Wa) được tính bằng cách chia W cho N. Giá trị trung bình chung của tỷ lệ sống (%), tốc độ tăng trưởng của tôm (gram/ngày), phần trăm tăng trọng (%) và tỷ lệ chuyển đổi thức ăn (FCR) được sử dụng trong các nghiên cứu nuôi trồng thủy sản thông thường (Tseng và cộng sự, 1998).

Phân tích dữ liệu

Dữ liệu nghiên cứu trong phòng thí nghiệm được phân tích bằng phần mềm Statistica Phiên bản 6.1 và ANOVA một chiều (Steel & Torrie, 1980) để đánh giá hiệu quả của từng nghiệm thức. Tính đồng nhất của phương sai và tính chuẩn của tất cả các tập dữ liệu đã được kiểm tra bằng thử nghiệm của Cochran. Thử nghiệm Tukey được sử dụng để phân biệt các nghiệm thức của từng thí nghiệm sau khi phân tích ANOVA (Steel & Torrie, 1980).

Kết quả và thảo luận

Tỷ lệ C:N của thức ăn ảnh hưởng đáng kể đến nồng độ amoniac trong thí nghiệm (Bảng 1). Nhìn chung, nồng độ amoniac trong thí nghiệm giảm khi tỷ lệ C:N trong thức ăn tăng, có thể do số lượng vi khuẩn dị dưỡng tăng lên khi tỷ lệ C:N của thức ăn tăng. Nghiên cứu sâu hơn cho thấy nồng độ amoniac có mối tương quan nghịch với số lượng vi khuẩn dị dưỡng. Xu hướng này phù hợp với quan sát trước đây của một số tác giả (Goldman và cộng sự, 1990; Tezuka, 1990; Anvimelech và cộng sự, 1992; 1994; Avnimelech, 1999; McIntosh, 2000) cho thấy lượng nitơ vô cơ giảm đáng kể khi tỷ lệ C:N của thức ăn tăng.

Bảng 1. So sánh nhiều phương tiện sử dụng xét nghiệm Tukey HSD về ảnh hưởng của tỷ lệ C:N trong thức ăn đến chất lượng nước và các thông số sản xuất tôm trong mô hình nuôi tôm LWEMW sử dụng mật đường làm nguồn carbon. Giá trị là phương tiện và độ lệch chuẩn của ba lần lặp lại vào cuối thời gian thử nghiệm 8 tuần. Các giá trị trong mỗi biến chất lượng nước trong cùng một cột được theo sau bởi các chỉ số trên khác nhau là khác nhau đáng kể (p<0,05). Sự đồng nhất về phương sai và tính quy phạm của từng mức biến chất lượng nước được kiểm tra bằng thử nghiệm của Cochran.

Nghiên cứu sâu hơn cho thấy rằng việc xử lý không sử dụng mật đường có nồng độ amoniac và nitrit cao nhất. Có lẽ là do việc tăng lượng mật đường loại bỏ nitơ vô cơ hiệu quả hơn thay nước trong nuôi tôm. Trước đây đã có tài liệu chứng minh rằng việc bổ sung carbon vào ao cá có hiệu quả loại bỏ nitơ vô cơ hơn là thay nước (Anvimelech và cộng sự, 1992; 1994; Avnimelech, 1999).

Nghiên cứu này cho thấy rõ ràng rằng amoniac không tích tụ trong nuôi tôm không được xử lý bằng mật đường trong thí nghiệm. Nitrit tích tụ trong ao nuôi tôm không sử dụng mật đường cho thí nghiệm. Kết quả này chỉ ra rằng việc thay nước khoảng 5% tổng lượng nước hàng tuần không có mật đường không thể kiểm soát được sự tích tụ nitrit trong nước nuôi tôm. Kết quả cũng mô tả tốc độ oxy hóa amoniac của vi khuẩn nitrat hóa cao nhất ở tôm nuôi không được xử lý mật đường trong thí nghiệm. Điều đó có nghĩa là việc sử dụng mật đường đã ức chế hoạt động nitrat hóa trong nuôi tôm. Đã có báo cáo rằng việc sử dụng carbon làm giảm hoạt động của vi khuẩn nitrat hóa (Bovendeur và cộng sự, 1990; Cheng & Chen, 1994; Ohashi và cộng sự, 1995; Zhu và Chen, 2001, Burford và cộng sự, 2003).

Có ảnh hưởng đáng kể đến nồng độ oxy hòa tan trong thí nghiệm theo mức độ tỷ lệ C:N của thức ăn (Bảng 1). Hơn nữa, kết quả chỉ ra rằng nồng độ oxy hòa tan giảm đáng kể khi tỷ lệ C:N trong thức ăn tăng lên trong mô hình nuôi tôm LWEM. Sự gia tăng số lượng vi khuẩn dị dưỡng với lượng thức ăn có tỷ lệ C:N có thể là nguyên nhân gây ra phát hiện này vì nồng độ oxy hòa tan trong thí nghiệm có mối tương quan nghịch với số lượng vi khuẩn dị dưỡng. Quan điểm này được hỗ trợ bởi nghiên cứu sâu hơn cho thấy số lượng vi khuẩn dị dưỡng trong thí nghiệm tăng lên đáng kể khi tăng mức độ tỷ lệ C:N trong thức ăn (như được thảo luận dưới đây). Người ta đã tuyên bố rằng vi khuẩn dị dưỡng có tác động làm giảm lượng oxy hòa tan trong ao nuôi tôm (Visscher và Duerr, 1991; Avnimelech và cộng sự, 1992; Sun và cộng sự, 2001).

Nồng độ oxy hòa tan thấp hơn trong quá trình xử lý với tỷ lệ C:N trong thức ăn cao hơn có thể dẫn đến giá trị chlorophyll a giảm đáng kể khi tăng tỷ lệ C:N trong thức ăn. Giải thích này được hỗ trợ bởi phân tích sâu hơn chứng minh rằng nồng độ oxy hòa tan trong thí nghiệm có mối liên quan tích cực đáng kể với hàm lượng chlorophyll a. Thông thường có mối tương quan tích cực mạnh mẽ giữa oxy hòa tan và hàm lượng chlorophyll a vào ban ngày (Boyd và Tucker, 1998; Giri và Boyd, 2000; McGraw và cộng sự, 2001; Sun và cộng sự, 2001).

Mặc dù có thay nước trong thí nghiệm (5% tổng lượng nước hàng tuần), nồng độ oxy hòa tan vẫn giảm theo thời gian thí nghiệm. Phát hiện này có lẽ là do tỷ lệ tích lũy các chất hữu cơ như thức ăn thừa, phân tôm, thực vật phù du và động vật phù du chết. Sự tranh cãi này được hỗ trợ bởi dữ liệu hiện tại cho thấy sự gia tăng lượng carbon hữu cơ trong thời gian thử nghiệm trong thí nghiệm. Kích thước tôm cũng tăng dần theo thời gian thử nghiệm và có thể là nguyên nhân làm giảm lượng oxy hòa tan theo thời gian thử nghiệm.

Mức độ cho ăn tỷ lệ C:N có ảnh hưởng đáng kể đến giá trị pH trong thí nghiệm (Bảng 1). Mức độ pH giảm đáng kể khi tăng tỷ lệ C:N của thức ăn trong thí nghiệm. Có ý kiến ​​cho rằng việc xử lý với tỷ lệ C:N trong thức ăn cao hơn sẽ tạo ra nồng độ carbon vô cơ (CO2) cao hơn, phản ứng với nước làm giảm độ pH của nước (Boyd, 1990).

Giá trị pH giảm dần theo thời gian thử nghiệm ở tất cả các nghiệm thức. Trong các nghiệm thức bằng mật đường, độ pH giảm có thể là do sử dụng mật đường nhiều hơn theo thời gian thử nghiệm do trọng lượng thức ăn của tôm tăng lên. Hơn nữa, mức độ pH giảm trong thời gian thử nghiệm trong quá trình xử lý không sử dụng mật đường có thể là do hoạt động của vi khuẩn nitrat hóa được biểu hiện bằng sự tăng dần nồng độ nitrit và nitrat theo thời gian thử nghiệm. Tacon và cộng sự (2002) cũng báo cáo rằng độ pH đã giảm vào cuối quá trình nuôi tôm do hàm lượng nitrit tăng dần theo thời gian nuôi.

Số lượng vi khuẩn dị dưỡng trong thí nghiệm bị ảnh hưởng đáng kể bởi mức độ tỷ lệ C:N của thức ăn (Bảng 1). Kết quả cho thấy số lượng vi khuẩn dị dưỡng gia tăng đáng kể khi tăng tỷ lệ C:N trong thức ăn nuôi tôm trong thí nghiệm và điều này có thể là do lượng lớn mật đường được sử dụng trong nghiệm thức đã kích thích sự phát triển mạnh mẽ hơn của vi khuẩn dị dưỡng. Nghiên cứu này cũng phù hợp với quan sát của Asaduzzaman và cộng sự (2010), cho thấy việc tăng tỷ lệ C:N từ 10 lên 20 đã làm tăng thể tích sinh học của tổng số vi khuẩn dị dưỡng trong ao nuôi tôm nước ngọt. Tương tự, một số nghiên cứu trước đây (Avnimelech và cộng sự, 1992; 1994; Kochva và cộng sự, 1994; Avnimelech, 1999) đã phát hiện ra rằng số lượng vi khuẩn dị dưỡng tăng theo tỷ lệ C:N trong thức ăn.

Nhìn chung, số lượng vi khuẩn dị dưỡng trong tất cả các nghiệm thức đều tăng theo thời gian thí nghiệm, mặc dù có thay nước trong thí nghiệm. Điều này có thể là do việc sử dụng thức ăn và mật đường tăng dần theo thời gian thí nghiệm, do đó số lượng vi khuẩn cũng tăng lên. Hơn nữa, tốc độ tích tụ chất hữu cơ cao hơn so với tốc độ chất hữu cơ được thải ra từ thí nghiệm có thể là một nguyên nhân khiến số lượng vi khuẩn dị dưỡng ngày càng tăng theo thời gian thí nghiệm.

Tỷ lệ sống của tôm trong tất cả các nghiệm thức của ba thí nghiệm là 100% và không bị ảnh hưởng bởi mức tỷ lệ C:N trong thức ăn trong khi mức tỷ lệ C:N trong thức ăn ảnh hưởng đáng kể đến tốc độ tăng trưởng, phần trăm tăng trọng và tỷ lệ chuyển đổi thức ăn ở cả ba thí nghiệm. (Bảng 2).

Nghiên cứu hiện tại đã chứng minh rằng các nghiệm thức sử dụng mật đường trong thí nghiệm luôn có tốc độ tăng trưởng và tỷ lệ tăng trọng cao hơn và tỷ lệ chuyển đổi thức ăn thấp hơn so với nghiệm thức không sử dụng mật đường. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu trước đó của một số tác giả (Arnold và cộng sự, 2009; Asaduzzaman và cộng sự, 2009; 2010) cho thấy rằng tăng trưởng cao hơn đáng kể khi carbon được áp dụng trong nuôi tôm với mô hình không thay nước. Hơn nữa, kết quả này có thể là do các cộng đồng dị dưỡng trong nghiệm thức sử dụng mật đường đã phát triển các khối gồm các tế bào vi khuẩn tổng hợp (McIntosh, 2000), và quá trình keo tụ của các tế bào có thể đơn độc hoặc kết hợp với các hạt thức ăn (Avnimelech và cộng sự, l989). Các hạt floc chứa hàm lượng protein cao, axit amin và một số nguyên tố vi lượng nhất định có thể được tôm tiêu thụ trực tiếp (Tacon và cộng sự, 2002; Kuhn và cộng sự, 2008;2009; Johnson và cộng sự, 2008; Vasagam và cộng sự, 2009).

Nhìn chung, tốc độ tăng trưởng và phần trăm tăng trọng tăng lên và hệ số chuyển hóa thức ăn giảm khi tăng mức tỷ lệ C:N trong thức ăn trong thí nghiệm. Những kết quả này được hỗ trợ bởi các nghiên cứu trước đây đã chứng minh rằng tốc độ tăng trưởng của cá trong ao được xử lý bằng tỷ lệ carbon:nitơ là 16,6:1 cao hơn đáng kể so với cá nuôi trong ao có tỷ lệ carbon:nitơ là 11,1:1 (Avnimelech, 1999). Hơn nữa, phát hiện này có thể là do nồng độ amoniac và nitrit đã giảm đáng kể khi tăng tỷ lệ C:N trong thức ăn vì phân tích sâu hơn cho thấy tốc độ tăng trưởng và tỷ lệ tăng trọng có mối tương quan nghịch với nồng độ amoniac và nitrit trong khi tỷ lệ chuyển đổi thức ăn có mối liên hệ thuận với mức độ amoniac và nitrit trong cả ba thí nghiệm. Tốc độ tăng trưởng của cá giảm và tăng tỷ lệ chuyển đổi thức ăn liên quan đến nồng độ amoniac cao trong nước ao đã được ghi nhận rộng rãi (Rhyther và Goldman, 1974; Rogers và Klemetson, 1983; Soderberg và cộng sự, 1983; Millamena, 1990).

Tuy nhiên, điều thú vị cần lưu ý là không có sự khác biệt đáng kể về tốc độ tăng trưởng, phần trăm tăng trọng và tỷ lệ chuyển đổi thức ăn giữa các nghiệm thức LWEM15.0, LWEM17.5, LWEM20.0 và LWEM22.5. Kết quả này có lẽ là do sự giống nhau về nồng độ nitrit giữa các nghiệm thức của từng thí nghiệm. Mặc dù có sự khác biệt đáng kể về nồng độ amoniac giữa các nghiệm thức đó, nhưng amoniac khó có thể ảnh hưởng đến các biến số sản xuất do nồng độ amoniac vẫn thấp hơn mức an toàn đối với tôm sú Penaeus monodon.

Kết luận

Mức độ tỷ lệ C:N của thức ăn ảnh hưởng đáng kể đến chất lượng nước và các thông số sản xuất tôm trong mô hình nuôi tôm LWEM sử dụng mật đường làm nguồn carbon. Hơn nữa, dựa trên chất lượng nước và các thông số sản xuất tôm trong suốt 8 tuần thử nghiệm, tỷ lệ C:N trong thức ăn tốt nhất thu được trong mô hình nuôi tôm LWEM sử dụng mật đường là 15,0:1.

Theo Pohan Panjaitan

Nguồn: https://www.academia.edu/76655802/Effect_of_C_N_Ratio_Levels_on_Water_Quality_and_Shrimp_Production_Parameters_in_Penaeus_monodon_Shrimp_Culture_with_Limited_Water_Exchange_Using_Molasses_as_a_Carbon_Source

Biên dịch: Nguyễn Thị Quyên – Tôm Giống Gia Hóa Bình Minh

TÔM GIỐNG GIA HÓA – CHÌA KHÓA THÀNH CÔNG

Xem thêm:

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

You cannot copy content of this page