Tôm cũng bị bệnh. Hội chứng Taura là một bệnh do virus TSV (virus hội chứng Taura) gây ra. TSV lây nhiễm các mô toàn cơ thể như hạ bì và trung bì (ở các biểu mô và biểu bì), và ở mang. Tuy nhiên, chưa có bằng chứng cho thấy các cơ quan có nguồn gốc từ nội bì như gan tụy, ruột giữa, manh tràng, cơ và tim bị nhiễm TSV.

Hội chứng Taura lần đầu tiên được báo cáo ở tôm thẻ chân trắng P. vannamei  vùng Taura ở Ecuador vào năm 1997 và sau đó nhanh chóng lan sang các nước châu Mỹ khác và các châu lục khác bao gồm cả châu Á. Người nuôi tôm Ecuador ban đầu cho rằng căn bệnh này xảy ra thông qua việc sử dụng thuốc trừ sâu trong các đồn điền chuối gần các trang trại nuôi tôm, tuy nhiên, nghiên cứu khoa học đã xác nhận đó là nguyên nhân virus. TSV là một bệnh OIE có báo cáo.

TSV có thể làm gia tăng các vấn đề sức khỏe trong môi trường sản xuất động vật thủy sản mật số cao. Bệnh Taura có thể xảy ra thường xuyên hơn ở  môi trường có độ mặn dưới 30 phần nghìn. Bốn kiểu gen TSV khác nhau đã được báo cáo: nhóm 1: Châu Mỹ, nhóm 2: Đông Nam Á, nhóm 3: Belize và nhóm 4: Venezuela, mỗi loại có tác động thương mại khác nhau.

Đặc trưng của bệnh TSV là tỉ lệ chết hàng loạt (40% – 90%) và được quan sát thấy ở con chưa trưởng thành (giai đoạn juvenile) trong giai đoạn đầu nuôi sau 14 ngày thả tôm . TSV có thể lây lan giữa các quần thể ao thông qua lây truyền ngang (ăn thịt đồng loại), TSV có thể lây nhiễm theo chiều dọc, phát hiện ở giai  đoạn tôm Post.Nhiễm TSV có thể được phát hiện bằng phân tích PCR ở hầu hết các giai đoạn sống của tôm bao gồm tôm post, tôm chưa trưởng thành và tôm thẻ chân trắng trưởng thành nhưng không phải ở trứng, ấu trùng hoặc hợp tử.

Tác nhân gây bệnh hội chứng Taura. Tác nhân gây bệnh TSV thuộc chi Aparavirus, Họ Dicistroviridae, Bộ Picornavirales. TSV có thể lây truyền sang các quần thể tôm nhạy cảm bởi các vectơ bao gồm phân bị nhiễm bệnh của mòng biển (Larus atricilla), gà (Gallus gallus) và côn trùng thủy sinh như rệp nước (Trichocorixa reticulate).

Biểu hiện lâm sàng của TSV. Dấu hiệu của các biểu hiện lâm sàng có thể xảy ra ở cuối giai đoạn tôm Post hoặc ở juveniles trong ao ương hoặc các ao nuôi tôm. Có 3 giai đoạn được phân biệt rõ:

Giai đoạn cấp tính (ảnh bên dưới): Tôm bị suy giảm giai đoạn cuối có biểu hiện tế bào sắc tố đỏ (tế bào sắc tố) lan rộng, thường đổi màu đỏ nhạt, chân bơi đỏ rõ rệt, vỏ mềm, ruột rỗng và thường bị bệnh ở giai đoạn D cuối của chu kỳ lột xác (sau lột xác). Tôm bị ảnh hưởng nghiêm trọng chết trong giai đoạn lột xác C-D (ecdysis). Các phát hiện mô học bệnh lý (bệnh cụ thể) chỉ được quan sát thấy trong giai đoạn cấp tính và được đặc trưng bởi hoại tử đa ổ trong biểu mô biểu bì của bề mặt cơ thể, mang, phần phụ, ruột sau, thực quản và dạ dày trước và sau. Tuyến râu cũng có thể bị phá hủy ở các sinh vật bị nhiễm trùng nặng.

Ngoài chẩn đoán mô học, kiểm tra dưới kính hiển vi có thể giúp phát hiện TSV ở tôm bị bệnh trong giai đoạn cấp tính bằng cách quan sát các cấu trúc tối hình cầu phong phú (tế bào hoại tử), đặc trưng bởi sự hiện diện của các hạt nhân pyknotic (nhân đông) và karyorrhectic (phân mảnh) và tàn dư tế bào chất.

Giai đoạn phục hồi (ảnh bên dưới)): Tôm sống sót qua giai đoạn cấp tính sau đó bước vào giai đoạn phục hồi. Các dấu hiệu lâm sàng thường gặp trong giai đoạn phục hồi bao gồm các tổn thương melanin đa ổ và lớp biểu bì có hình dạng sẫm đen hoặc nâu sẫm. Đây là những vị trí quyết định tổn thương TSV trong biểu mô biểu bì. Động vật bị bệnh trong giai đoạn này ăn bình thường và có thể có vỏ mềm và sự phì đại của các tế bào sắc tố đỏ.

Giai đoạn mãn tính: Khi tôm hồi phục sau giai đoạn phục hồi và các tổn thương u ác tính lớp biểu bì biến mất do lột xác, chúng sẽ thiết lập một vỏ ngoài khỏe mạnh mới mà không có dấu hiệu gì về bệnh TSV. Những con tôm “sống sót” này có thể vẫn bị nhiễm bệnh trong vòng đời mà không có dấu hiệu lâm sàng, tuy nhiên chúng ít chống lại các tác nhân gây căng thẳng môi trường trong môi trường nuôi thâm canh.

Phát hiện sớm TSV bằng Shrimp MultiPath™. Thử nghiệm và phát hiện sớm với Shrimp MultiPath™ có thể thông báo cho người nuôi từ 2-6 tuần trước khi các dấu hiệu lâm sàng xuất hiện và trước khi chết hàng loạt. Trong các ao ương thương phẩm và ao nuôi tôm, nhiễm TSV có thể được phát hiện sớm. Thông tin này là một hệ thống cảnh báo sớm chuẩn bị cho nông dân trong giai đoạn quan trọng và có thể làm chậm sự lây lan của dịch bệnh và tối đa hóa sản lượng sản xuất.

Phát hiện sớm cho phép đưa ra các biện pháp khắc phục kịp thời. Chúng có thể bao gồm:

  • Xét nghiệm PCR để sàng lọc tôm bố mẹ trước khi đưa vào bể sản xuất.
  • Xét nghiệm PCR để sàng lọc trước bể loại bỏ tôm post có kết quả dương tính với nhiễm TSV.
  • Không thả ấu trùng từ các trại giống bị nhiễm bệnh vào ao.
  • Tránh thức ăn sống và tươi (đặc biệt là tôm bố mẹ) từ các quốc gia có tình trạng nhiễm TSV trong lịch sử.
  • Không cho tôm bố mẹ cái ăn 6 giờ trước khi chuyển sang bể sinh sản để giảm ô nhiễm trứng với phân, và tăng cường rửa và khử trùng trứng và nauplii trước khi chuyển sang bể giống để giảm ô nhiễm TSV có thể xảy ra từ phân bố mẹ.
  • Sử dụng tôm post từ các chương trình nhân giống tập trung vào các kế hoạch loại trừ và sản xuất TSV-Free hoặc Specific Pathogen Resistant or Free (SPR / SPF).
  • Thả tôm post kháng TSV hoặc chịu được sau xét nghiệm PCR TSV trên tôm post và, giám sát ao để tìm TSV bằng các công cụ phân tử.

Các chiến lược canh tác phòng ngừa có thể làm giảm lây truyền TSV bao gồm:

  • Canh tác toàn bộ vùng nuôi với đàn không có TSV.
  • Loại bỏ tôm bị bệnh hoặc chết để ngăn ngừa lây truyền qua ăn thịt đồng loại.
  • Giảm mật độ ao nuôi (thu hoạch từng phần).
  • Loại bỏ các mảnh vụn và phân hữu cơ (xử lý vi khuẩn và / hoặc xử lý sinh học vi khuẩn khi có thể).
  • Hỗ trợ kỹ thuật thích hợp để theo dõi định kỳ bằng các công cụ chẩn đoán thích hợp sẽ cho phép phân biệt giữa TSV và các bệnh khác có dấu hiệu lâm sàng tương tự.
  • An toàn sinh học xung quanh các ao bị nhiễm bệnh phải được tăng cường, ví dụ như quản lý các ao bị ảnh hưởng hàng ngày, tách lưới và thiết bị, lắp đặt các rào cản vật lý, thông báo cho nông dân lân cận về sự lây nhiễm và thu hoạch khi đạt được kích thước thương mại. Các kế hoạch giảm thiểu bệnh tật nên bao gồm các chương trình loại trừ mầm bệnh.

Shrimp MultiPath™ được sử dụng để xác nhận khi tôm bố mẹ hoặc ấu trùng bị nhiễm các hạt TSV. Dữ liệu này có thể được sử dụng để loại bỏ tôm bố mẹ bị nhiễm bệnh và/hoặc các lô ấu trùng từ các hệ thống sản xuất trước khi thả ao có sinh vật bị nhiễm bệnh.

Các loài nhạy cảm với nhiễm TSV trong đó sự hiện diện của vi-rút đã được chứng minh và bệnh có dấu hiệu lâm sàng đã được quan sát, bao gồm P. monodon, P. vannamei, P. stylirostris, P. setiferus, P. aztecusMetapenaeus ensis. Các loài sinh vật dưới nước khác đã được báo cáo là dương tính TSV bằng PCR nhưng không bị nhiễm trùng.

Các giai đoạn để phát hiện TSV sớm chính xác bao gồm giai đoạn cuối của tôm post (cả tại trại giống và/hoặc tại ao trang trại và ao ươm), tôm con và trưởng thành. Không có bằng chứng nhiễm TSV ở hợp tử, trứng hoặc ấu trùng đã được ghi nhận, tuy nhiên, có thể TSV có thể lây truyền theo chiều dọc từ con trưởng thành sang trứng.

Các cơ quan phát hiện tôm MultiPathTM nhạy cảm là chân bơi, hemolymph và tôm nhỏ nguyên con. Lấy mẫu mô đầy đủ là điều cần thiết để phát hiện và định lượng phân tử TSV chính xác. Khi tôm post hoặc tôm con được xét nghiệm PCR, toàn bộ cơ thể được đồng nhất để lấy aliquot để chiết xuất RNA và phân tích PCR tiếp theo để phát hiện bộ gen TSV. Gan tụy, ruột giữa hoặc phân không nên được sử dụng như một nguồn mô đáng tin cậy để phát hiện sự hiện diện của TSV.

Lấy mẫu và bảo quản các mô để xét nghiệm PCR được thực hiện trong các lọ và / hoặc ống có nhãn niêm phong. Chất cố là ethanol phòng thí nghiệm 70-95% hoặc RNALater. Các mẫu mô nên gồm chân bơi hoặc hemolymph của toàn bộ ấu trùng sau cung cấp kích thước 2 đến 5 mm2 (khoảng 50 mg). Thiết bị phải được khử trùng giữa các mẫu.

Số lượng lấy mẫu và Kế hoạch quản lý sức khỏe nên được thiết lập với chuyên gia sức khỏe và chuyên gia tư vấn, những người sẽ tính đến các yếu tố như nguồn ấu trùng naupost /tôm post, khí hậu, quy mô và vị trí trang trại, cấu trúc công ty, kênh thị trường để bán sản phẩm, v.v. Việc gộp mẫu tôm để xét nghiệm TSV nhằm tối đa hóa giá trị chi phí được thực hiện thường xuyên bằng xét nghiệm PCR.

Các giải pháp dài hạn hơn đối với bệnh do TSV gây ra bao gồm nhân giống để chịu đựng và kháng thuốc với an toàn sinh học như một chiến lược phòng ngừa. Vệ sinh và quản lý tốt có thể giúp kiểm soát bệnh. Chúng bao gồm:

  • Cải thiện chất lượng con giống và kiểm soát vệ sinh trong trại giống.
  • Thường xuyên sàng lọc PCR tôm bố mẹ và tôm post, với sự quản lý chất lượng tôm bố mẹ (đặc biệt là các phép đo dự phòng cho tôm mẹ).
  • Sử dụng tôm post âm tính với TSV và quản lý trang trại nuôi tôm tốt bao gồm kiểm soát tỷ lệ cho ăn nghiêm ngặt, giảm chất hữu cơ trong bể và ao, và mật độ thả thích hợp.
  • Giám sát các dấu hiệu lâm sàng của các tác nhân gây bệnh TSV hàng tuần.
  • Phát hiện mầm bệnh sớm và giảm thiểu rủi ro thông qua việc sử dụng Shrimp MultiPath™ là một công cụ quan trọng để giảm thiểu dịch bệnh.

Nguồn: https://genics.com.au/wp-content/uploads/2021/10/Taura-Syndrome-Virus-TSV-Guide.pdf?x60024

Biên dịch: Nguyễn Thị Quyên – Tôm Giống Gia Hóa Bình Minh

TÔM GIỐNG GIA HÓA – CHÌA KHÓA THÀNH CÔNG

Xem thêm:

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

You cannot copy content of this page