Một loạt các thử nghiệm gần đây cho thấy rằng tôm hùm gai châu Âu (Palinurus elephas) rất thích hợp trong nuôi trồng thủy sản để tái tạo nguồn cung hoang dã đang suy giảm và có khả năng nuôi để bán ra thị trường.

Tôm hùm gai chưa trưởng thành với kích thước 7,8 cm sau 9 tháng nuôi

Tôm hùm gai chưa trưởng thành với kích thước 7,8 cm sau 9 tháng nuôi

Tôm hùm gai châu Âu là mục tiêu chính cho ngành thủy sản ở Ireland, Vương quốc Anh, Pháp, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Ý, Hy Lạp, Tunisia và Maroc, cũng như các vùng biển lân cận Địa Trung Hải (Goñi & Latrouite, 2005). Việc thiếu kiến thức sinh học và hệ thống quản lý lỏng lẻo, cộng với việc đánh bắt quá mức đã làm cho loài thủy sản quý này bị cạn kiệt ở Đại Tây Dương.

Trước đây, tôm hùm gai là một trong những loài thủy sản quan trọng nhất đối với khu vực ven bờ của Vương quốc Anh, nhưng từ lâu, nó đã không còn đóng góp vào hoạt động đánh bắt thủy sản thương mại ở một số khu vực. Có dấu hiệu phục hồi nhẹ ở một số vùng của Vương quốc Anh, nhưng ở các khu vực khác, loài này đã bị tuyệt chủng về mặt thương mại kể từ cuối những năm 1970. Năm 2021, có khoảng 10 loài động vật bị đánh bắt ở Bán đảo Llŷn, phía bắc Wales.

Bất chấp tình trạng cạn kiệt của P. elephas ở Vương quốc Anh do các kỹ thuật đánh bắt hủy diệt như lưới đánh bắt Tangle (đánh bắt với số lượng cực lớn), loài này vẫn được nhắm đến do có giá trị cao không chỉ trên thị trường Vương quốc Anh mà còn cả thị trường quốc tế (Cosgrove và cộng sự, 2016).

P. elephas rất nhạy cảm với tác động từ việc đánh bắt, một số quần thể bị khai thác quá mức phải mất đến vài thập kỷ mới dấu hiệu phục hồi. Ngay cả ở những khu vực của châu Âu, nơi có hệ thống quản lý đánh bắt thủy sản tốt hơn, vẫn có một số quần thể vẫn suy giảm đều đặn. Mặc dù tôm hùm gai có tầm quan trọng về kinh tế và sinh thái, nhưng vẫn còn hạn chế trong việc đánh giá trữ lượng và đưa ra các quyết định quản lý mạnh mẽ. Ngoài ra, các kiến ​​thức toàn cầu về lịch sử cuộc sống cơ bản và các thông tin về dân số, tuổi, sự tăng trưởng, quá trình trưởng thành của loài tôm này vẫn còn hạn chế so với các loài tôm hùm thương mại khác (Santos và cộng sự, 2022). Khi tôm hùm suy giảm, ngư dân có thể sẽ đi xa hơn và lâu hơn để đánh bắt loài giáp xác có giá trị này. Điều này trực tiếp góp phần làm cho tôm hùm – một trong những loài hải sản kém bền vững nhất bị bị cạn kiệt (Gephart và cộng sự, 2021).

Nghiên cứu về P. elephas ở Vương quốc Anh bị giới hạn trong các cuộc khảo sát thực địa theo dõi sự suy giảm đều đặn của loài, trong khi các nỗ lực nhằm bảo vệ chúng tốt hơn đã bị cản trở bởi những lập luận cho thấy sự kém hiểu biết về sinh học loài. Những nỗ lực nhằm nâng cao kiến ​​thức về các giai đoạn ấu trùng P. elephas hầu như không tồn tại từ khi Kittaka và cộng sự thực hiện nghiên cứu (2001). Trong khi đó, lại có nhiều nghiên cứu tập trung vào tôm hùm có móng (Homarus gammarus) – một loài có rất ít đóng góp vào việc sản xuất giống quy mô lớn cho kinh tế hoặc phục hồi ngành.

Sau vài năm nghiên cứu, Công ty TNHH Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản RAS (RASAR) đã cho ra một số thông tin hữu ích về đặc điểm sinh học của ấu trùng phyllosoma tôm hùm gai, dẫn đến những con tôm giống đầu tiên được sản xuất ở Châu Âu vào năm 2019 và một lần nữa vào năm 2021. Con giống được bảo vệ trong 2-3 tháng thời gian nuôi, trái ngược với chu kỳ ấu trùng 7-9 tháng được giữ trong tự nhiên. Các nghiên cứu về sự tăng trưởng của P. elephas chưa trưởng thành ở Anglesey cho thấy rằng nuôi trồng thủy sản có thể cung cấp một công cụ quản lý bổ sung giúp khôi phục nguồn thủy sản đang dần cạn kiệt ở châu Âu. Những thử nghiệm này được thực hiện trong cùng điều kiện nuôi và thu được một số phát hiện thú vị:

  1. P. elephas chưa trưởng thành không có biểu hiện gây hấn hoặc ăn thịt đồng loại ở mức độ nghiêm trọng khi nuôi ở điều kiện chung. Tình trạng này vẫn diễn ra ngay cả khi những con non mới định cư được cho sống cùng với những con non lớn hơn đang ở giai đoạn cho ăn. Sau đó, những con non khác nhau về kích thước, độ tuổi hoặc tình trạng lột xác sẽ lớn lên cùng nhau.
  2. Chỉ quan sát thấy vài cuộc giao tranh rất ngắn ở các điểm trú ẩn mà chúng ưa thích nhiều. Những con ở gần nhau thường giao tiếp với nhau bằng râu.
  3. P. elephas chưa trưởng thành sẽ “điều chỉnh” nơi ẩn náu để có chổ ở thích hợp như loại bỏ cát và sỏi để mở rộng nơi trú ẩn.
  4. Chúng xác định được nhiều con mồi và nhanh chóng phát triển các kỹ năng bắt giun nhiều tơ và động vật hai mảnh vỏ.
  5. Chúng ăn được thức ăn dạng viên kết hợp với chất dẫn dụ thích hợp.
  6. Hoạt động mạnh về đêm trong 9 tháng đầu tiên sau khi định cư, trở nên hiếu động hơn vào buổi tối.
  7. Thời gian lột xác trung bình là 26 ngày, tổng chiều dài cơ thể là 5,5-7,5 cm ở giai đoạn hậu ấu trùng 9 tháng.
  8. Không quan sát thấy tỷ lệ chết ở P. elephas chưa trưởng thành, nhưng điều này có thể không đúng đối với mức sản xuất thương mại.

Ở Vương quốc Anh, P. elephas được coi là một thành phần chính của đa dạng sinh học, rất cần thiết cho việc bảo tồn thuận lợi và tình trạng môi trường tốt (GES) của những sinh cảnh này. Việc phục hồi quần thể P. elephas được coi là cực kỳ quan trọng để đạt được GES theo Chỉ thị Khung Chiến lược Biển của Liên minh Châu Âu (Leslie & Shelmerdine, 2012). Vào năm 2014, những lo ngại về việc thiếu các đánh giá chính xác tình trạng của tôm hùm gai đã dẫn đến việc Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (IUCN) phân loại chúng là loài “dễ bị tổn thương”.

Trái ngược với việc nuôi H. gammarus, chu kỳ ấu trùng của P. elephas phức tạp hơn và quá trình chuyển sang giai đoạn sinh vật đáy mất nhiều thời gian hơn. Tuy nhiên, các kỹ thuật để giải quyết những trở ngại chính đối với sản xuất con non quy mô lớn hơn đang ngày càng tiến bộ. Một điểm đặc biệt trong năm 2022 là tự động hóa việc vệ sinh các bể chứa ấu trùng và giảm chi phí thức ăn và nhân công. Ưu điểm chính của việc nuôi P. elephas so với H. gammarus là có thể quan sát được giai đoạn ấu trùng. Hành vi hung dữ của H. gammarus đòi hỏi phải nuôi cách ly con non, làm tăng đáng kể chi phí lao động, bảo trì và sản xuất. Ngược lại, việc nuôi P. elephas được thực hiện trong các bể nuôi chung. Đây là điều kiện nuôi được yêu cầu chất lượng nước có kiểm soát tốt, hệ thống bể được thiết kế để tối đa hóa sản lượng. Theo kích thước tối ưu cần thiết cho các chương trình phục hồi, sự phát triển đến kích thước phù hợp để có thể đạt được là trong vòng 4-6 tháng kể từ khi trứng nở.

Ngoài tầm quan trọng về mặt sinh thái, việc phục hồi loài hải sản có giá trị cao này rất quan trọng để mang lại lợi ích cho ngành thủy sản quy mô nhỏ (SSF). Kể từ năm 2000, vai trò của SSF đối với các nền kinh tế khu vực châu Âu đã giảm lần lượt 20–30% và 30–50% về việc làm và thu nhập (Lloret và cộng sự, 2016). Ở những nơi có thể quản lý khai thác thủy sản quốc gia một cách hợp lý, việc sản xuất giống ấu trùng của loài P. elephas để thả nuôi trong các Khu bảo tồn biển (MPA) hoặc các công trình năng lượng ngoài khơi phù hợp có thể được quan tâm. Sử dụng kỹ thuật nuôi như một công cụ để hỗ trợ phục hồi ngành thủy sản hoặc cải thiện các phương án quản lý đối với ngành đánh bắt tôm hùm gai sẽ vẫn cần hỗ trợ tài chính. Tuy nhiên, việc loài này có giá trị thị trường rất cao cùng với các đặc điểm sau khi định cư của chúng đã làm xuất hiện một số lựa chọn khả thi. Các dự án thương mại tiềm năng đã được xác định và sẽ được tìm hiểu thêm với các đối tác Châu Âu. Những điều này có thể bao gồm việc nuôi tôm hùm P. elephas trực tiếp cho thị trường thủy sản, nơi mà giá trị thị trường rất cao của chúng có thể hỗ trợ cho việc ​​phục hồi.

Sự tham gia của các hợp tác xã ngành thủy sản khu vực trong các chương trình như vậy sẽ là điều cần thiết để đảm bảo việc phục hồi. Tích hợp với các trang trại RAS, các KBTB hoặc hợp tác với các dự án du lịch và năng lượng tái tạo cũng có thể hỗ trợ tài chính cho các hoạt động trại giống cho các hoạt động phục hồi. Cách tiếp cận như vậy có thể hỗ trợ khái niệm kết hợp nuôi trồng thủy sản với bảo tồn biển, tức là hỗ trợ các dịch vụ hệ sinh thái (Le Gouvello và cộng sự, 2022) và thậm chí có thể giảm lượng khí thải CO2 đáng kể liên quan cụ thể đến nghề đánh bắt này (Parker và cộng sự, 2018).

Một lĩnh vực chính cần nghiên cứu sâu hơn liên quan đến nhu cầu cải tiến thức ăn trong giai đoạn ấu trùng phyllosoma. Tỷ lệ chết cao (30-100 %) được quan sát thấy sau giai đoạn phyllosoma sau khi biến thành hậu ấu trùng. Phyllosoma có dinh dưỡng kém có thể dẫn đến con non yếu, không đủ thức ăn dữ trữ để tồn tại đến giai đoạn con non. Hậu ấu trùng là giai đoạn nghỉ ngơi trước khi chuyển thành tôm hùm con trong 2-3 tuần. Một đặc điểm chung của tất cả các loài tôm hùm có gai như P. elephas là giai đoạn hậu ấu trùng không cho ăn. Sự phát triển hơn nữa ở giai đoạn này đòi hỏi nguồn thức ăn đầy đủ chất dinh dưỡng được dự trữ trong giai đoạn cho ăn phyllosoma trước đó. Những nguồn dự trữ này cũng có thể quan trọng trong những giai đoạn sau khi chuyển sang tôm hùm con đầu tiên, nếu nguồn cung cấp thức ăn không đủ hoặc điều kiện môi trường không thuận lợi (Limbourn và cộng sự, 2008; Espinosa-Magaña và cộng sự, 2017).

Nghiên cứu hiện tại cũng đang làm nổi bật tiềm năng tốc độ tăng trưởng của con non, sự phát triển của thức ăn viên dành cho con non và tối đa hóa sản lượng con non kích cỡ 10-15g trong hệ thống bể nhiều tầng. Hiện tại, RASAR có kế hoạch mở rộng các thử nghiệm nuôi con non để xác định năng suất của loài này ở các kích cỡ lớn hơn có thể được thị trường thủy sản chấp nhận.

Theo The Fish Site

Nguồn: https://thefishsite.com/articles/potential-for-cultured-european-spiny-lobster-juveniles-to-support-fishery-restoration

Biên dịch: Huyền Thoại – Tôm Giống Gia Hóa Bình Minh

Xem thêm:

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *